Monday, November 5, 2007

ai đi, bỏ lại con đường?

Bên ấm trà tối qua, tiền bối hỏi tôi đã bỏ công “xây dựng” nhân vật dì Hai như một người đàn bà hiền dịu, chịu đựng, tảo tần và thương con đến như vậy, sao thả một câu cuối truyện làm hư hết cả bột lẫn đường? Nếu dì Hai đã lỡ lầm yêu thương một con người không đáng được yêu thương như ông Tám để có một kết quả buồn thì sao dì lại dễ dãi, dẫm lại những dấu chân dì đã đi trong mối tình sau này với chú Thân? Tại sao không rút kinh nghiệm từ những đau thương lần trước? Với tình yêu chân thật của chú Thân, tại sao không giữ gìn cho nhân vật dì Hai không bị sa ngã bởi những dục vọng tầm thường?

Sự thật thì dì Hai là một nhân vật có thật ở cái xóm nghèo nơi tôi ở ngày xưa. Oái ăm ở chổ là khi đem những chi tiết thật vào một bài viết, cái chân thiện mỹ lại bị phá đi. Tôi về nghĩ lại những lời góp ý của tiền bối. Rồi quyết định bài này tôi có đến hai kết cục, vì nếu đứng trên phương diện một người viết blog đơn thuần và chỉ viết về những gì có thật trong cuộc sống, tôi sẽ giữ lại câu cuối nguyên thủy của bài; nhưng nếu đứng trên phương diện một người luôn lấy cái chân thiện mỹ để làm kim chỉ nam và một vãn bối biết gom góp những lời góp ý của người đi trước thì kết cục của bài này, tôi sẽ đổi lại như sau:

Vừa về tới chân đồi, dì Hai đã nghe tiếng thằng Bi gào thét. Vứt đôi quang gánh xuống bên vệ đường, dì quạt đám cỏ dại chạy băng về hướng nhà mình. Thằng Bi đang quơ quào, cố hết sức mình để ngồi dậy, đám con nít vây quanh, la cười hể hả. Dì nhào tới, đỡ con dậy rồi quắc mắc nhìn quanh, "Đứa nào chọc nó? Tụi bây là lũ ác nhơn, nó què quặt vậy mà cũng không tha. Ác nhơn, lũ ác nhơn!" Thấy dì Hai giận dữ,bọn trẻ tản ra, lầm lũi đi về. Dì dìu thằng Bi vào nhà. Nước mắt pha mồ hôi đổ mặn chát trên môi. Dì lặng lẽ đi tắm cho con, đỡ nó lên bộ phản rồi quay ra đám cỏ lượm quang gánh đem về.
Chiều thu chớm lạnh, gió từ đập nước trước nhà lùa vào căn nhà trống tềnh toàng của hai mẹ con dì. Tiếng gió thổi cái líp tre lập phập sau hè. Thằng Bi ngồi nép mình vào người dì mân mê con ngựa gỗ không biết ai cho, thỉnh thoảng lại cười hăng hắc. Dì Hai đưa tay vuốt tóc con, mắt dõi qua phía bên kia đập nước. Khói bếp nhà người bốc lên nghi ngút, tiếng gà lục tục lên chuồng, tiếng con nít gọi nhau í ới. Nước mắt dì lại lặng lẽ rơi. Cái cảnh đầm ấm thanh bình đó, đến khi nào mẹ con dì mới được hưởng qua?
Non tháng nay, con đường tắt ra chợ bị nước trong đập tràn qua, bùn đất nhão nhẹt, bất đắc dĩ dì Hai phải đi theo con đường lớn. Ngày đầu tiên, lúc hai mẹ con quang gánh đi ngang nhà ông Tám, bà Tám đang quét sân, dừng lại chửi đổng, "Bây đâu? Đem mấy dề cơm nguội cho chó nó ăn." Thằng Bi nghe tiếng người ngẩng đầu lên cười ngu ngơ. Dì Hai kéo tay con, lầm lũi đi như tháo chạy. Trưa hôm ấy, lúc mấy bà hàng chợ đang ngủ gà ngủ gật, ông Tám thập thò sau sạp hàng của dì, nói vọng vào, "Hai ơi, cho tui xin lỗi, Hai đừng chấp bà già đó làm gì. Em cầm lấy chút đỉnh này, mua đồ chơi cho con." Dì Hai nuốt nước mắt, liệng mớ tiền vào người ông rồi quày quả quay đi. Thằng Bi đang nằm gối đầu trên đùi dì, ngủ say, chốc chốc lại co quắp người như đang tránh những trận đòn thù. Cơn ức nghẹn lên căng cứng cả lồng ngực, dì Hai cắn môi đến bật máu. Gương mặt trắng bệt của ông Tám khi dì báo cho ông biết dì đang mang thai thằng Bi lại hiện ra rõ mồn một. Lúc ấy, ông lắp bắp hỏi dì, "Em có thiệt cái thai này là của tôi không?" Dì Hai đau đớn, lầm lũi quay về.
Thằng Bi sanh thiếu tháng. Đêm đó, dì Hai ngậm cái muổng inox trên miệng, tự đỡ đẻ cho mình trong căn chòi má dì cất cho bên cạnh nhà. Cầm cự đến gần sáng, dì kiệt sức. Thằng Bi đói khóc ngằn ngặt. Chắc hẳn đã đánh thức bà dậy. Bà đi qua, lẳng lặng lấy quần áo cũ lau chùi cho hai mẹ con, tuyệt nhiên không nói một lời nào. Thằng Bi giống ông Tám như hai giọt nước, cũng hai hàng lông mày rậm giao nhau nơi trán, hai cánh mũi dài nhọn, chụm vào nhau như hình mũi tên. Mặc dù dì chưa bao giờ hé lộ với ai về cha đứa bé, kể cả má của dì nhưng trong cái xóm nhỏ này, tìm một người có những nét đặc biệt như vậy không khó. Một đồn trăm, trăm đồn ngàn. Ai đi chợ cũng ngó nghiêng vào hàng của dì, mua bán thì ít mà chuyện trò để thỏa lòng hiếu kỳ thì nhiều. Bà Tám một hôm xồng xộc đi vào, vén chiếc khăn, lặng nhìn một hồi rồi xách nón đi thẳng. Từ đó, thấy mẹ con dì Hai ở đâu, bà cũng chửi bâng quơ. Thằng Bi, ngoài cái chân quặt quẹo, lên năm tuổi mà vẫn như trẻ lên hai, chậm nói, chậm cười.
Năm ngoái, rau trái được mùa nên người ta thi nhau xẻ đất trồng rau. Rau không kịp bán đem về chất đống, chờ đến khi phân hủy, rãi làm phân bón. Sạp rau của dì Hai không chống nổi với những cạnh tranh của bạn hàng, dì sang sạp, đổi sang bán xôi buổi sáng. Xôi dì vần đều tay, hạt nếp dẽo mềm, thơm phức. Sáng sáng, đám thợ thuyền xúm lại, loáng một hết đã hết gánh xôi. Thói thường ăn một thứ hoài thì ngán, duy chỉ có chú Thân vẫn chăm chỉ ghé vào hàng của dì mỗi ngày. Chú tứ cố vô thân, lưu lạc về cái xóm nhỏ này mấy tháng nay. Thấy dì Hai với thằng Bi côi cút một mình, chú hay mượn cớ khi thì sửa lại cái chái nhà, lúc thì kê lại cái máng xối, qua lại chăm nom mẹ con dì. Má dì hay đứng trước hiên nhà, ngó nghiêng. Có bữa nói với qua như nhắn nhủ, "Được cạp, được dề thì còn chờ gì nữa?" Dì Hai cũng mến cái tính chân thật, hay thương người của chú Thân nhưng kẹt nỗi dì không chồng mà đã có con nên khó mở lời. Thôi thì đợi phải lúc, người ta khắc lên tiếng.
Cái ngày định mệnh đó, trời trở gió nồm, khô rát. Như mọi lần, dì để thằng Bi nằm ngủ trên giường, quảy gánh ra chợ. Lúc nào nó dậy, tự biết đường mà ra ngồi với dì. Chờ quá trưa, vẫn không thấy thằng Bi, dì sốt ruột nhìn về hướng nhà mình, thấy một cột khói đen ngòm tỏa ráp lên trời. Chột dạ, dì bỏ gánh chạy ngược lên đồi. Dì như ngã quỵ, trước mắt dì, ngôi nhà của hai mẹ con đang chìm trong biển lửa. Dì Hai chạy như bay xuống đồi, gào thét gọi tên con. Mong nó ở đâu đó từ hai bên đường, quặt quẹo xề ra ôm lấy chân dì. Người tấp nập chạy ngược chạy xuôi qua lối mòn vào nhà, mỗi người giúp một tay chuyền nước từ dưới đập lên để dập tắt ngọn lửa đang hung dữ liếm đã gần hết căn nhà. Dì Hai điên cuồng lao đi tìm từng ngõ ngách, bụi rậm quanh đồi, đụng ai cũng hỏi thăm thằng Bi, ai cũng gượng gạo lắc đầu. Tuyệt vọng cùng cực, dì quỳ sụp xuống đám bùn trước sân nhà, giơ tay như với lấy trời cao, xin một phép màu cho thằng Bi được bình an. Đám lửa cuối cùng đã được dập tắt. Dì liêng xiêng nhào vào đống tro tàn, chỉ kịp thấy cái thân hình co quắp trong kia rồi ngất lịm.
Ngày đưa thằng Bi đi chôn, không thấy tăm hơi ông Tám. Nghe má dì kể lại, sáng sớm bà Tám có đem giấy vàng mã ra ngã ba đốt rồi rãi tro ra tứ phía. Trong xóm, người góp công, kẻ góp của, giúp dì cất lại căn nhà nhỏ trên nền đất cũ. Mỗi buổi sáng, dì vẫn bới mẻ xôi đầu để dành cho thằng Bi, như ngày con còn sống. Những bi kịch đời dì, lại một lần nữa được thêu dệt và đem ra bàn tán. Cuộc sống của dì Hai vốn đã lặng lẽ, giờ càng lặng lẽ hơn. Chiều chiều, dì vẫn ngồi trước cửa, nhìn qua bên kia đập nước, thấy cảnh xum vầy của người ta mà lòng dạ bồi hồi. Chú Thân đi theo nhà thầu hẹn về từ tháng trước mà bây giờ vẫn chưa thấy về. Gió từ thổi ùa vào căn nhà trống, đập vào liếp tre lập phập sau nhà. Con đường trước mắt chợt nhòa đi, nhòa đi trong sương chiều….

4 comments:

K.C.Q said...

Cái tựa đề này hợp với cái ending của câu truyện. Nhưng Tím vẫn thích cái ending kia, thấy rất thực tế... vì Tím thấy có nhiều người có cái số phận rất hẫn hui ... (như 3 đứa con 3 cha) nhưng họ đâu có muốn vậy đâu...

zen said...

Có lẽ vậy đó Tím! :-)

anh phước said...

Có lẽ ai cầm bút đều luôn muốn hướng đến những tròn trĩnh, có hậu của câu chuyện, và gửi gắm những gì tốt đẹp cho đời. Nhưng cuộc đời không hẳn là màu hồng.
Cái kết của truyện "Dì Hai" theo anh là đắt hơn "Ai đi bỏ lại con đường", cái kết ấy mới đích thị là của một nhà văn luôn băng giá và lạnh lùng trước các nhân vật của mình, tuy nó hơi "ác", nhưng dư ba của truyện ngắn mới đọng lại là một lời cảnh báo không chỉ cho dì Hai mà cả chúng ta nữa!

Ta said...

I like the old verson better