Wednesday, November 1, 2006

Chưa có một mùa xuân

Năm nay trời thật lạ. Vừa cúng đưa Ông Táo về trời, Ông Trời lại làm mặt giận. Đang nắng đó bỗng rồi vần vũ mây đen, mưa hạt đều từ buổi sáng kéo dài tới trưa. Điệu này còn có thể kéo dài thêm tới chiều, tới tối và cả ngày mai.

Sáng sớm, dì Ba Thanh Hồng của tôi lo điểm phấn tô son. Dì tô đôi môi đỏ chót, kẽ đôi mắt xanh lè. Tiếng nói cuả Dì không còn chua như giấm, đổi tông, ngọt lịm như đường phèn. Nhưng khi đứng ở cửa sổ nhìn ra bầu trời vần vũ mây đen, nghe tiếng mưa bắt đầu nặng hạt trên mái, Dì không nén được, xỉa xói Ông Trời một thôi một đỗi. Phút giây đó, cái nét dịu dàng của người đàn bà biến mất, lại hiện nguyên hình “con hồ ly tinh”, ‘bà chằn lửa”. Đó là những biệt danh mà dì Tư Thanh Cẩm thường gọi dì Ba Thanh Hồng chứ tôi thì làm gì mà dám. Có cho ăn kẹo chocolat hay là xí-muội-muối-đường ( là những món mà tôi rất thích ) tôi cũng chẳng ham. Dì mà nghe được thì chỉ có mà trốn biệt. Dì sẽ ngắt, sẽ véo đau thấu trời xanh. Nhìn mấy móng tay đỏ chói, nhọn hoắt của Dì, tôi muốn phát sốt gây cả người.

Ông bà Ngoại tôi có ba người con gái. Người nào cũng sắc nước hương trời, thiệt là mỗi người mỗi vẻ. Mẹ tôi là chị đầu, mọi người thường gọi là Cô Hai. Cô Hai từ ngày lấy chồng , xuống hạng là Cô Năm, vì Ba tôi là thứ bậc Năm trong gia đình bên Nội. Nhưng mà chỉ xuống hạng thôi chớ mọi thứ đều “có hạng” cả. Vừa đẹp người lại đẹp nết. Hồi nhỏ lễ phép với hết làng, hết xóm. Lớn lên, phong cách sống rất được lòng mọi người. Ăn nói có chừng mực, biết phẩy, biết chấm. Có nghĩa là biết khi nào ngừng, lúc nào phải nói để không phải mếch lòng ai. Đi đứng khoan hòa không vấp phải đá, không quàng phải dây hồi nào. Nói chung, là một người con gái hiền ngoan, sau này cũng vẫn là một người đàn bà đoan trang chừng mực. Nồi nào úp vung đó. Gặp Ba tôi, cũng coi như là xứng đôi vừa lứa. Có điều tính Ông thì nói hơi nhiều, lại ưa pha trò đùa cợt. Ông nhìn cuộc đời với con mắt lạc quan và tấm lòng độ lượng, không muốn vướng bận những lụy phiền. Ông người miền
Nam, lưu lạc và sống nhiều năm tại Sàigòn. Ở cái Thôn hẻo lánh miền cao này, ai gặp Ông cũng gọi là ông Năm Sàigòn. Lại ngược đời, gọi Mẹ tôi là Bà Năm Huế ! Nghề chính của Ông từ ngày chưa về ở rể nhà Ông bà Ngoại tôi là đi buôn thuốc Tây. Đủ loại thuốc. Từ nhức đầu sổ mũi cho tới thương hàn nhập lý, sốt rét vàng da, nhác ăn biếng ngủ, cường dương tráng thận v..v..Nửa tháng Ông ghé một lần, giao thuốc, bán thuốc rồi nhận lời ủy thác của mấy gia đình có bệnh nhân nằm chờ thuốc quanh năm suốt tháng. Ông giành giựt thiệt sôi nổi hào hứng với ông Thầy Tàu thường ghé qua bán rao thuốc Bắc, với cả mấy tay giang hồ mãi võ lâu lâu ghé lại chiêng trống ầm trời, nội ngoại công phu đạt tới mức... thượng thừa! Nhưng mà Ông chẳng mất lòng, chẳng gây hận thù vì chuyện làm ăn với đồng nghiệp. Tại vì Ông hiền lắm lại giống Mẹ tôi ở chỗ biết phẩy biết chấm. Lúc nào cần lấn tới, lúc nào phải nhượng bộ. Mà tính Ông hiền thiệt. Củ khoai mà nói củ sắn Ông cũng cười giả lả, không tranh cãi, không đôi co. Nhưng mà nếu tờ giấy bạc mà nói là tờ giấy trơn thì nhất định Ông không chịu, thậm chí còn có phản ứng. Chẳng phải vì Ông mê tiền nhưng chắc là vì thói quen nghề nghiệp. Vả lại, vốn lăn lộn từ hồi nhỏ, cực khổ trăm đường để kiếm sống. Đồng tiền kiếm ra có mồ hôi nước mắt pha chung, nỡ nào mà nói là tờ giấy trơn cho được !...

Từ ngày gặp Mẹ tôi, Ông về ở rể rồi bỏ luôn nghề buôn thuốc, nhận công việc mới Ông bà Ngoại tôi giao. Đó là chăm sóc một vườn hoa Hồng và trông coi một hồ cá rô Phi .Công việc nhàn hạ lại trói buộc bước chân giang hồ có làm cho Ông buồn bực, ít nói hơn, lại không có dịp pha trò đùa cợt cho vui với ai ngoài mấy con cá cứ lượn lờ chờ ăn suốt ngày. Rõ ràng, đôi mắt giai nhân đã lụy bước anh hùng.Con chim đã vô lồng, con cá đã vào rọ. Mẹ tôi không có lòng chật hẹp, đâu muốn kềm hãm bước chân ai mà tại vì Ông tình nguyện đó thôi!...

Rồi nói tới Dì Tư Thanh Cẩm (còn chuyện dì Ba Thanh Hồng xin tạm gác, nói sau). Chuyện về dì Tư Thanh Cẩm là thể loại chuyện ngắn không phải là chuyện đăng từng kỳ, tràng giang đại hải. Bởi vì cuộc đời của Dì đơn giản, đóng khung lộng kính treo tường ngắm nghía cho qua. Có nghĩa là cuộc đời của Dì không có chi sôi nổi. Điệu này, cũng chỉ rơi vào cái lịch trình soạn sẵn cho một người con gái bình thường. Sinh ra, lớn lên, đi học, biết yêu, lấy chồng, sinh con đẻ cái, già xụ rồi nhắm mắt xuôi tay. Kể ra thì cũng đẹp, cũng là ước mơ chung của người phụ nữ. Nhưng mà, phẳng lặng và bình thản quá cũng... buồn.

Dì ước mơ sau này sẽ là một cô giáo cho nên đang ngồi năm thứ hai Sư Phạm. Mỗi năm về thăm nhà hai lần. Một vào lúc nghỉ Hè và một vào dịp Tết. Tính Dì không giống Mẹ tôi lại càng không giống dì Ba Thanh Hồng. Ai nói sao cũng được, Dì không tranh cãi đôi co. Tròn thì cứ cho nó tròn. Méo thì cứ cho nó méo. Có mất mát gì đâu! Tròn hay méo thì chính tự nó cũng đã có sự thể hiện rồi, tranh cãi làm gì..

Nhưng có một điều hết sức đi ngược với tính tình của Dì.

Ra ngoài thì sao tôi không biết nhưng về tới nhà là giữa Dì Ba và Dì Tư luôn có sự bất đồng. Hai Dì cứ cãi vã nhau từ những chuyện không đâu ra đâu. Nhất là chuyện tình yêu đôi lứa thì như là lửa nước gặp nhau. Một bên thì muốn được hiền hòa phẳng lặng như nước hồ Thu. Một bên thì cứ muốn dậy sóng ba đào, như biển động sông tràn. Mẹ tôi là người ở giữa, cũng đã hết lời can gián, răn đe. Nhưng mà tình yêu thì làm sao mà giải cho ra. Con tim có tiếng nói và có lý lẽ riêng. Tiếng nói của Mẹ tôi cũng chỉ là tiếng kêu đò bến vắng. Mà có tới mười hai bến nước trong nhờ đục chịu chớ có phải ít đâu! Dì Hai( hay là cô Năm Huế ) có nói chi cũng chỉ hoài công, lại mang tiếng khắt khe đa sự....

Được cái dì Tư Thanh Cẩm của tôi rất tốt bụng. Dì ưa giúp đỡ mọi người, thích làm việc xã hội. Vậy mà trong quá khứ có hai lần ốm tương tư phải uống thuốc trợ tim với lại thuốc ngủ. Cũng chẳng phải phẳng lặng như nước hồ Thu đâu! Dậy sóng lắm chớ. Những đợt sóng thầm lặng chết người! Cả hai lần Dì đều bị dì Ba Thanh Hồng tôi sỉ vả đủ điều. Dì Tư cúi đầu lặng thinh không nói một lời. Dì khóc. Càng khóc thì lại càng bị sỉ vả dữ dằn hơn. Rồi cũng xong, cả hai lần đều không vật ngã được Dì. Dì lại đứng lên, tươi cười, ráo hoảnh. Mẹ tôi khen, không phải khen Dì mà khen dì Ba Thanh Hồng : ”Cái con nớ mà hay, hắn dựng đứng mi dậy thiệt là gọn. Ôi chao là tình, phát sợ !”.

Ôi chao là tình, phát sợ! Đó là nói với ai kia, chớ với dì Ba Thanh Hồng của tôi thì thiệt là vô nghĩa. Có chăng là con mắt đa tình của Dì, phát sợ thì có!

Tôi nhớ, hồi đó có chú Quốc Việt năng lui tới nhà.Chú đẹp trai, ăn nói có duyên lại con nhà dư dảõ. Chú đến nhà để học cách ghép Hồng với Ba tôi. Nhưng đó chỉ là cái cớ. Mục đích chính là chú thiết tha mong muốn được ghép đời chú vào đời của dì Ba Thanh Hồng. Hồng nào thì cũng là hồng. Đẹp mà lại có gai nữa. Chú biết vậy mà chú không sợ, một phần ỷ lại vào tài ăn nói có duyên và gia đình bạc tiền rủng rỉnh.. Chú siêng học hỏi lắm tới nỗi Ba tôi phát phiền, phát bực. Đi học ghép cây ngồi lê ngồi lết dưới vườn suốt buổi vậy mà chú ăn mặc bảnh bao lại còn xức dầu thơm lựng. Không chịu chăm chú vào mấy cây Hồng mà con mắt cứ láo liêng. Có lần, Ba tôi giận quá, Ông cằn nhằn : ” Chú mầy sao mà tối dạ quá chừng vậy? Qua đã chỉ tới cả chục lần là vạt mặt chậu cho khít khao mối ghép mà làm hoài không xong! Chú ý nè, qua dạy một lần nữa nghen. Làm không xong thì đi luôn đừng ghé nữa. Mắc công quá mà!” Sau lần đó, Ba tôi có ý phàn nàn với Mẹ tôi. Bà cười ngất rồi nhỏ to với Ông điều gì đó. Ông khựng người một thoáng rồi cũng cười theo: ”Thiệt vậy sao?. Chuyện này nghe cũng ngộ. Thôi, để tui giúp nó một tay. Tui không giận nó nữa. Biết lòng dạ nó rồi, ai mà nỡ!”. Nhưng dì Ba Thanh Hồng của tôi không nghĩ vậy. Biết lòng dạ chú Việt rồi mà Dì cứ hành hạ đủ điều. Đụng mặt nhau bất ngờ, mặt Dì lạnh tanh, phớt tỉnh. Dì bắn tiếng, chê chú không hết lời. Thậm chí mỗi lần phải đi ngang qua chỗ chú làm, Dì ngúng ngoảy, vùng vằng khó chịu. Mỗi lần như vậy, chú Việt buồn lắm, ngồi thừ một chỗ không nói, không cười. Ba tôi phải dỗ dành chú như đứa con nít. Dì xé nát trái tim chú ra làm trăm mảnh vá khâu không kịp. Đến nỗi chú phát bịnh, xin phép Ba tôi nghỉ dài hạn, không hẹn ngày “đáo lai nhiệm sở”! Ba tôi buồn, hụt hẩng, ngẩn ngơ. Mẹ tôi buồn, tiếc. Chỉ mấy ngày chú vắng mặt, vườn Hồng xụi lơ, vắng tanh vắng ngắt. Cho tới một lần, tôi ngỡ ngàng hết sức khi nhìn thấy cảnh dì Ba Thanh Hồng ngồi bệt dưới thảm cỏ, khóc muồi mẫn. Mẹ tôi, có vẻ giận, ánh nhìn nghiêm khắc, nói với Dì :”Như vậy chẳng khác gì mi đuổi hắn đi. Mà thiệt, hắn đi rồi đó. Bây chừ có khóc lóc thì giữ được cái chi. Sao hồi nớ mi đanh đá, chanh chua, dữ dằn rứa? Sao không rớt một giọt nước mắt cho mượt mà tươi mát lòng hắn. Để hắn khô héo mỏi mòn. Hắn sợ, hắn bỏ đi là đúng. Thương người ta kiểu nớ là thương ác, chớ thương chi mà thương, cái con chằn lửa”. Rồi nhận thấy mình hơi quá đáng, Mẹ tôi dỗ dành Dì : ” Thôi, nín đi rồi tính liệu trì kéo hắn về. Tình cảm con người cũng rắc rối lắm. Chắc là phải nhờ anh Hai bắn tiếng cho hắn tới. Lần ni, nếu mà hắn có tới thì em phải bấu cho chặt vô đó! Con chằn...” Mẹ tôi ngưng kịp ở chữ cuối. Tôi biết là bà giận lắm nhưng không nỡ nói nặng lời. Chằn lửa hay chằn tinh chi rồi cũng phải lụy tình. Trái tim vẫn còn trần tục. Con mắt vẫn cứ liếc tình. Dì Ba ơi là Dì Ba!

Bẵng đi một thời gian không thấy chú Quốc Việt tới lui chi nữa. Chú đi rồi, mang mối tình thiên thu mà bỏ đi trước khi Ba tôi tới ngỏ lời. Nghe đâu chú bỏ vô Sàigòn chữa cơn bịnh trầm kha rồi mất biệt từ đó. Dương gian chừng quá rộng, mắt lệ giai nhân không níu được bước chân người. Lai là người mang bệnh tình si. Con chim một lần đau sợ ná. Con cá một lần mắc câu, sợ điếng cái dây. Chắc là chú Việt sợ rằng, nếu một lần trở lại, gặp tính nết trái gió trở trời của Dì tôi lại lậm thêm một lần đau, chắc khó thoát nẻo hồng trần!

Dì Ba tôi thời gian biếng lười son phấn. Biếng nói biếng cười. Ngồi đâu ngồi lì như cục đất. Đứng đâu đứng sững như trời trồng. Nanh vuốt chằn tinh, chằn lửa chi đó hết muốn vồ chụp tới ai. Trạng thái Dì như người bị nhồi máu cơ tim, nhói đau từng chập. Dì rã rời thân xác một thời gian không lâu như mọi người(hay nói cho đúng, như tôi) nghĩ. Lại bắt đầu vươn mình sau giấc ngủ tình si. Giọng nói bắt đầu đổi tông, chanh chua đanh đá. Tiếng cười đã cao cung, rộn rã. Dì lại tươi tắn như hoa. Lại mặn mòi như trách cá bống kho tiêu. Thiệt lạ!

Tôi nhớ, có chú Chung, là sinh viên Văn Khoa, hát hay đờn giỏi. Có tài làm Thơ nên lấy bút hiệu là Quế Sơn. Quế Sơn là một địa danh ở quê chú. Nhưng mà muốn nghĩ là cây quế ở trên núi(hay rừng) như tôi thường hỏi chú, cũng được. Tính chú trầm lặng, có chiều sâu.

Dịp Hè năm đó, chú theo Đoàn Thanh Niên Chí Nguyện về xây dựng trường lớp ở Thôn tôi. Đoàn chia làm năm nhóm, được phân về ở các nhà trong xóm. Các cô, chú làm việc không có lương bỗng, chỉ có một tấm lòng. Ban ngày quần quật ngoài sân trường. Ban đêm lại tổ chức văn nghệ giúp vui bà con trong xóm. Cây đàn ghi ta cũ mèm và giọng hát truyền cảm của chú Chung đã chinh phục được lòng người. Giấc chiều, cả xóm lao xao. Không ai dặn ai, đều lo cơm nước sớm để kịp ra sân trường coi văn nghệ. Sân khấu lộ thiên trời là mái, đất là sàn. Dàn nhạc chỉ độc một cây đàn của chú Chung. Hai cái muỗng nhôm gõ nhịp theo điệu nhạc của chú Tiến. Hai cái nắp nồi cũ mèm móp méo lấy từ hai cái nồi của Dì Tư cho mượn để Đoàn nấu cơm kho cá hàng ngày. Cái thôn xóm vốn hẻo lánh buồn hiu quanh năm suốt tháng trên miệt rẻo cao đã được đánh thức bởi không khí sinh động của những đêm văn nghệ. Có nhiều lý do để bà con tìm tới. Lý do rõ nhất là không biết làm gì trong khoảng thời gian từ khi mặt trời khuất núi cho tới lúc leo lên giường, phủi cẳng, đánh một giấc đầy đặn để lấy sức ngày mai ra vườn, ra ruộng, ra ao cá, ra đồi trà. Đám thanh niên thanh nữ thì nhất định không chịu bỏ qua giờ phút bằng vàng. Có cô lại thầm son phấn chút đỉnh. Có anh lén chải đầu láng mướt. Đi tìm tình yêu mà! Đâu có thể hời hợt, qua loa được.

Phải công nhận là chú Chung có nhiều tài. Chú hát hay, đàn giỏi, ngâm thơ rất truyền cảm lại ăn nói có duyên. Trong chú, hình như có hai con người trái ngược. Ban ngày, chú thầm lặng ít nói ít cười chỉ lo công việc. Nhưng khi màn đêm buông xuống và khi bước lên sân khấu phục vụ giúp vui bà con, chú hóa thân thành một con người khác. Linh hoạt, nói năng lưu loát, trơn lu như da cá trê. Dưới ánh đèn sân khấu và trong ánh mắt ngưỡng mộ của bà con, chú vươn lên, biến dạng thành một...siêu sao. Tiết mục nào cũng được bà con tán thưởng, vỗ tay la hét om sòm. Và rồi đâm ghiền cái không khí văn nghệ hằng đêm đó! Đến như Ông bà Ngoại tôi sau giờ cơm nước buổi chiều cũng níu tay nhau ra sân trường, sợ trễ. Chỉ có dì Ba Thanh Hồng tôi là vẫn bình thản. Dì lại chê chú Chung đủ điều làm tôi thầm bất mãn. Dì ví chú như một tên hề hạng bét, nói năng chọc cười thiên hạ thiệt vô duyên. Người ta cười là cười cái vô duyên đó chớ có phải cười tán thưởng đâu. Giọng hát chú ngọt ngào như có chất đường mía lau, thanh tao như múi bưởi Thanh Trà vậy mà Dì nỡ chê bai là như vịt đực kêu bầy, chó tru ngựa hí. Dì còn chê chú nhiều điểm nữa và tất nhiên không bao giờ tới sân trường. Mỗi đêm cả nhà chuẩn bị đi coi văn nghệ, Dì rút vô phòng. Có lần Mẹ tôi rủ Dì đi xem thử cho biết, Dì trề môi ngúng nguẩy, lại thốt lời chê bai. Tôi đâm giận và tự nhiên ghét Dì hết sức!

Rồi cũng tới lúc công việc xây dựng trường lớp hoàn tất. Chuyện chia ly đã tới cận kề. Đêm cuối cùng trình diễn văn nghệ để ngày mai Đoàn lên đường về lại Sàigòn, bà con nườm nượp kéo tới sân trường đông như ngày hội. Hai tiếng chia ly đã là một động lực vô hình để mọi người cùng xích lại gần nhau. Đêm đó, chú Chung đã để lại trong lòng bà con một niềm cảm xúc dạt dào. Tiếng đàn như nức nở nghẹn ngào. Tiếng hát như có một âm điệu ray rức xốn xang. Tôi buồn lắm.

Đêm văn nghệ đã chấm dứt một đỗi lâu, bà con lục đục kéo nhau ra về, tôi vẫn còn ngẩn ngơ đứng lại. Tự nhiên tôi muốn gặp chú Chung. Muốn nói với chú một lời dẫu ngắn để mai chú về lại Sàigòn xa tít tắp, chú còn giữ lại chút gì để nhớ đến tôi, thằng bé đầu trần chân đất trong cái xóm hẻo lánh miệt cao này. Vậy là tôi quyết định một mình đến nơi chú ở trọ.

Qua khỏi đồi trà của Ông bà Ngoại bắt đầu rẽ vào con đường nhỏ um tùm những bụi sim dại, tôi bỗng nghe tiếng nói thầm thì, rồi có tiếng khóc. Động tính hiếu kỳ, tôi khom người len lén đi về hướng có những lùm bụi um tùm nhất. Dưới ánh trăng mờ nhạt, tôi giật thót người khi thấy chú Chung. Đúng là chú Chung. Chú đang ngồi yên lặng trầm ngâm, tay chú cầm cuốn sách, tay kia chú vòng qua ôm vai một người con gái, đang gục đầu vào vai chú. Tim tôi đập thình thịch, cố rúm người cho nhỏ hơn, hai mắt nhìn chăm chăm vào người con gái đang gục đầu trên vai chú. Tiếng khóc đè nén như tiếng người nấc cục, rồi tôi nghe tiếng nói :” Mai anh về lo xong việc nhớ trở lại thăm em.Đừng bắt em chờ, em .....”. Tôi giật bắn người, ngã ngửa về phía sau. Mồ hôi tự nhiên toát ra, nóng ran cả người. Không còn kịp suy nghĩ, tôi cố sức ngồi bật dậy rồi vọt thẳng ra con đường lớn phía trước. Tiếng nói đó cứ đuổi quấn chân tôi, loạng choạng theo những bước chạy ngả nghiêng xiêu vẹo. Không, tôi không thể nghe lầm được. Chắc chắn là tôi không nghe lầm. Đó chính là giọng nói của Dì Ba. Dì Ba Thanh Hồng của tôi đó....

Buổi sáng Đoàn lên đường thật sớm. Xế chiều, anh Tư Sa chuyên nghề đi buôn trà chuyến trở về, vô tình thuật lại một chuyện rất thương tâm. Có chiếc xe đò xuống đèo Chuối, do vì bánh trước nổ bất ngờ, tài xế mất bình tỉnh không kềm được tay lái nên chiếc xe đã lao xuống vực sâu. Trên xe có một số hành khách và Đoàn Thanh Niên Chí Nguyện vừa xong công tác trở về. Bà con ngơ ngác, xôn xao bàn tán. Tin tức loan truyền nhanh từ đầu trên xóm dưới. Tôi nghe choáng váng. Dì Ba Thanh Hồng thì ngả người, bất tỉnh.

Dì hoảng loạn tinh thần, rũ buồn, ngơ ngác. Mặt phấn môi son trở màu xanh lét. Ông bà Ngoại tôi lo lắng, thuốc thang chạy chữa cho Dì. Nhưng chỉ có mình tôi biết chắc là chẳng có thuốc nào mà chạy chữa cho được căn bệnh trầm kha đó. Chỉ còn nước chờ thời gian.

Mà thiệt. Chỉ một thời gian cũng không lâu lắm, Dì lấy lại được tiếng cười. Như loài gấu ngủ đông trở mình thức giấc khi mùa Xuân ấm áp trở về, Dì trở lại hồng hào tươi tắn. Lại tô son nhồi phấn. Lại vẫn cứ là dì Ba Thanh Hồng!

Và Dì Ba của tôi cứ chơi vơi trong những cuộc tình lãng đãng không biết cho tới lúc nào!

Sáng nay, Dì đi ra, đi vô, đứng lên, ngồi xuống. Mưa ngoài trời hạt đều, trắng xóa đồi trà, ướt đẫm mấy cụm cúc đơn đang nụ trước sân nhà. Tôi ngồi thu người trong góc sofa, cầm cuốn sách hình chăm chú. Nhưng thật ra, tôi có thấy gì đâu! Tôi đang lén theo dõi từng cử động của Dì. Dì đi quanh phòng dễ cũng mâý mươi lượt. Những bước chân khi thì nhẹ nhàng, êm ái. Khi thì cuồng nộ hung hăng như muốn chụp vồ, băm vằm xé vụn ai đó, nếu mà vô phúc Dì chụp được. Những lúc đó, tôi nín thở, cố thu người cho thiệt nhỏ lại. Rõ ràng là Dì có vụt đi qua trước mặt tôi rất nhiều lần, như bão như dông, nhưng mà Dì không biết, không thấy, không nghe. Khuôn mặt Dì diễn tả hết tình cảm hỉ, nộ, ái, ố qua từng bước chân mau, chậm, nhẹ nhàng. Cuối cùng, Dì ra đứng bên cửa sổ, mơ màng nhìn ra màn mưa. Những giọt mưa trái mùa đan chéo như chừng muốn kéo ngược thời gian trở lại mùa mưa dai dẳng thảm sầu vừa mới qua đi. Qua từ khi con én gọi bầy. Mùa Xuân đã dợm bước xuống dương gian đem sức sống tràn đầy cho cỏ cây hoa lá và cho cả con người. Vậy mà cơn mưa trái trời chi mà ác, để tội Dì Ba tôi đi đứng không yên, bồn chồn ray rức. Tôi biết Dì đang đợi một người : chú Đông. Trọng Đông. Người-tình-trăm-năm của Dì. Đó là lời Mẹ tôi thường nói đùa mỗi khi nhắc tới chú Đông trước mặt Dì và khi Dì đang vui. Cuộc đời tình ái của Dì đúng như lời ông thầy bói mù thường ghé qua xóm, tiên đoán là gian truân khổ nạn. Dì nhứt định không tin điều đó và ghét cay ghét đắng ông thầy bói mù. Tôi biết, đó chẳng qua chỉ là một sự phản kháng che lấp sự tin tưởng của mình. Sau cái vụ chú Chung, tưởng là trái tim nóng bỏng của Dì trúng nước, lạnh lẽo để rồi nằm yên thoi thóp cầm chừng. Nhưng không, vẫn âm ỉ nóng ran, vẫn giữ đều nhịp đập theo những cuộc tình, thiệt đúng như lời ông thầy bói mù tiên đoán, đầy khổ nạn. Tôi nhớ tới chú Hành, chú Nam rồi chú Tính. Mỗi người một vẻ dáng riêng, đi vào đời Dì mà không hề ngừng lại. Ở mỗi người, Dì đã rớt nhiều nước mắt và gởi lại nhiều thương đau. Dì quỵ xuống nhiều lần thê thảm rồi lại đứng lên nhiều lần để tiếp tục những bước đi cho trọn đời con gái. Ở mỗi bước đi còn giữ lại nhiều nếp nhăn hằn sâu cằn cỗi. Cho tới lúc Dì Tư Thanh Cẩm của tôi đã có chồng con thì Dì Ba tôi cảm thấy mình quá chậm. Như con rùa, thua chị thua em. Thầm kín trong lòng người con gái nào chẳng mong ước có một bến nước, cho dù là trong đục. Bây giờ, rõ ràng Dì không còn hơi sức đâu mà cãi tay đôi với dì Ba Thanh Cẩm tôi về chuyện tình yêu nữa! Chắc là mệt mỏi và đuối lắm rồi! Và, Dì chọn chú Đông. Ông bà Ngoại tôi có ý không ưng, chê chú làm nghề thợ may suốt đời ngồi ăn vải. Con mắt suốt ngày nhìn đường kim mũi chỉ, e lòng dạ cũng nhỏ nhoi vậy thôi! Nhưng mà Dì đã chọn chú Đông rồi, có đưa chú Xuân hay chú Hạ, chú Thu thì Dì cũng bĩu môi.
Mà cũng tại vì cơn mưa trái trời mà chú Đông bị Dì tôi rủa tơi bời! Tới khi Dì quyết định không đi tới đi lui đi qua đi lại nữa, ngúng ngoảy xuống bếp xắn tay phụ với Mẹ tôi và dì Tư Thanh Cẩm làm mứt món, thì ông Trời đổi sắc. Tiếng mưa thưa dần rồi ngưng đành đoạn. Nắng hửng lên, bất ngờ, như là trò ảo thuật. Nắng trải thảm, vàng hoe dọc cả đồi trà. Mây đen rã đám trôi giạt về hướng núi. Trời ráo hoảnh, trong xanh. Dì vừa cầm con dao định băm vằm mấy củ cải làm dưa món cho hả cơn nóng giận, bỗng khựng lại, lắng nghe.Rồi Dì nghiêng người nhìn qua cửa sổ, gương mặt rạng rỡ nụ cười. Bỏ vội con dao lăn lóc tội nghiệp trên bàn, Dì vội vã đi lên phòng khách. Nỗi háo hức, chờ mong không che dấu của Dì làm cho tôi thấy thương cảm thật lòng. Tôi biết, sâu lắng trong lòng, Dì không dấu được những đợt sóng tình cuồn cuộng và háo hức một nơi chốn tìm về bến đổ. Dì đâu còn trẻ nữa! Đâu còn sức chịu đựng những nghiệt ngã của định mệnh cứ dồn dập ập lên đời Dì. Đã bắt đầu quơ quào bắt với một điểm nương tựa cho yên thân đời con gái. Và Dì túm được chú Đông. Có mà Trời gầm, cũng không nhả!

Con én lượn vòng gọi Xuân dưới trời nắng ráo, Dì khe khẽ hát. Có tiếng con chim sẻ nhảy chuyền líu lo phụ họa. Mùa Xuân đã về rồi, giữa đất trời bao la và trong cả lòng Dì. Dì chăm chú sửa lại bình hoa trên bàn, cao hứng hát thêm một đoạn nhạc Xuân. Vẫn không quay người lại, Dì nói, như đang nói với mấy đóa hoa hồng :

- Thôi, đủ rồi nghe con! Đứng lên rồi đi đâu đó giùm một chút. Biết lát nữa Dì có khách không? Cứ ngồi đó dòm ngó hoài không biết dị.

Tôi giật nẩy người, vội đứng lên, chuồn lẹ xuống bếp.

Cả nhà đang quây quần lo nấu nướng chuẩn bị tất niên. Năm nào cũng vậy, cứ sau khi đưa Ông Táo về Trời, Ông bà Ngoại tôi vẫn cúng tất niên sớm hơn mọi nhà. Không khí Xuân làm rộn ràng lòng người. Cả nhà đều hội về đông đủ, tiếng nói cười, đùa giỡn náo nhiệt hẳn lên.

Thiếu tiếng cười của Dì Ba Thanh Hồng. Nhưng tôi biết, lát nữa đây khi chú Trọng Đông tới, tiếng cười của Dì rồi sẽ át cả tiếng cười của mọi người.

Rõ ràng, chú Đông là mùa Xuân của Dì.
Trời gần xế chiều, khi cả nhà đã chuẩn bị xong mọi việc, Dì Ba tôi bắt đầu mất bình tỉnh. Tiếng hát ngưng ngang. Cả nhà biết ý, cố đi đứng nhẹ nhàng, nói thì thầm, cười nén tiếng. Đám con nít bị xua ra vườn sau.

Bỗng nhiên có tiếng rộn ràng ngoài cổng. Mọi người nhìn ra thấy anh Tân, người làm công cho Ông bà Ngoại tôi, mặt mày hớt hải chạy tuốt vô sân nhà. Dì Ba tôi vội vàng mở cửa phòng khách vụt ùa ra. Hai người trao đổi với nhau điều gì đó, rồi tôi thấy Dì Ba chạy ra cổng. Dì vấp ngã nhiều lần, rồi cố gượng đứng lên, loạng choạng chạy tiếp.

Cả nhà vội xúm quanh anh Tân, rụng rời khi biết chú Đông vừa được đưa vào Bệnh viện cấp cứu. Do trời mưa, đường trơn trợt, chiếc Honda của khi xuống dốc bị đưa ngang, quăng chú ngả dập đầu xuống mặt đường, bất tỉnh....

Từ ngày chú Đông xuất viện, chú trở nên ngơ ngẩn, thất thần khi tỉnh khi mơ. Dì tôi tình nguyện rước chú về nhà để chăm sóc. Dì tự coi đó là trách nhiệm và bổn phận. Cuộc sống của Dì cũng đột nhiên thay đổi hoàn toàn. Dì trở nên nghiêm trang và thầm lặng như một cái bóng. Biếng nói, biếng cười và chẳng màng se sua chải chuốt. Dì đã tự nguyện đem cuộc đời mình vào nếp sống khổ hạnh. Lo làm việc xã hội và thường giúp đỡ mọi người. Trái tim Dì đã không còn háo hức, vồ vập cho riêng mình những đam mê khát vọng mà dàn trải cho hết thảy mọi người. Dì vẫn còn nét đẹp để còn có nhiều Chú phải lụy tình, nhưng Dì đâu còn đoái hoài và tơ tưởng gì nữa! Mỗi năm, Dì có năm ngày để cúng giỗ, không hề xao lãng. Mỗi lần như vậy, Dì ngồi thầm lặng một mình trong khói hương lảng đãng, lặng lẽ để cho những giọt nước mắt tha hồ rơi ướt đằm những cuộc tình và những khuôn mặt người tình bất hạnh đã từng ngừng lại, đi qua trong đời Dì.... Sau đó, Dì dành nhiều thì giờ để chăm sóc chú Đông, coi như là một niềm vui trong cuộc sống. Chú suốt ngày đi thơ thẩn trong vườn, nói năng lảm nhảm. Có một điều rất lạ là Chú thường thừa lúc Dì bận rộn công chuyện, lén bỏ nhà đi dọc theo con đường cũ. Chú vừa đi vừa mếu máo như đứa con nít. Mắt láo liêng tìm kiếm hai bên đường, chẳng thèm để ý đến xe cộ hay người qua kẻ lại. Mỗi lần đi tìm Chú, đem Chú về thiệt là khổ. Chú trì kéo không chịu về, mắt cứ nhìn quanh, tay chỉ trỏ lung tung, miệng lảm nhảm những điều gì đó, không ai nghe rõ. Anh Tân, có lần sực nhớ, nói với Dì tôi : “ Cô Ba, như vậy là Cậu đi tìm bó hoa Hồng đó! Tui nhớ, lúc đó có một bó hoa Hồng lớn lắm. Nó nằm bên lề đường, cạnh chiếc Honda.Chắc là Cậu mua bó hoa đó để dành tặng cô Ba ..”.Câu nói vô tình của anh Tân làm Dì Ba tôi bật khóc muồi mẫn.

Rồi mùa Xuân năm đó, trước khi gia đình tôi rời xóm nhỏ. Cũng vào những ngày giáp Tết, mấy người đi bán hàng chợ sớm trở về thấy chú Đông nằm bên lề đường. ngay nơi xảy ra tai nạn năm nào. Chú nằm yên như ngủ, người đã lạnh cứng....


Trần Huy Sao
Mùa Xuân 2000
Hiên Trăng Brookhurst

No comments: