Showing posts with label lượm về- văn. Show all posts
Showing posts with label lượm về- văn. Show all posts

Tuesday, July 12, 2011

tóc bạc như nhau

Mình đọc bài này của cô Bích Nga và liên tưởng tới chú và mẹ. Hình dung một buổi chiều nào đó, chú không mỏi mệt bôn ba, ngồi trên cái võng sau hè, chị chị tui tui mi mi, tóc chú hói rồi, có nhổ cũng không đặng. Chỉ còn hai chị em thôi, khi nào chú bôn ba mệt mỏi rồi....
Chiều chiều, sau khi ăn cơm xong, em trai tôi ra ngoài sân ngồi hút thuốc. Cái tướng nó ngồi trên ghế vừa hút thuốc vừa uống lon Sunkist sao mà giống Ba tôi chi lạ! Thỉnh thoảng nó mở điện thoại ra chơi game, chăm chú nhìn vào từng con cờ Domino và quên đi thân phận lẻ loi của một con người…
Cũng có khi tôi ra đứng bên cạnh em trai, quan sát nó chơi game với điện thoại. Nó chơi một tụ, máy chơi ba tụ, tổng cộng là bốn tụ cứ như bốn người bạn thật sự. Mỗi lần nó ra một con cờ là liền sau đó ba con cờ khác lần lượt từ đâu đó bay ra, ráp vào bàn Donino, giống hệt một ván cờ thật sự. Tôi hỏi, thí dụ mình “đứng” thì sao. Em tôi trả lời, nếu mình “đứng” thì máy tự động thảy cờ xuống.
Thỉnh thoảng thấy em trai tôi không biết làm gì, chỉ ngồi ngó mông ra ngoài đường, tôi biểu nó quăng điếu thuốc đi, tôi nhổ tóc bạc cho nó. Em trai tôi vui vẻ làm theo lời tôi, ngồi dựa lưng vào ghế thật thoải mái để tôi nhổ tóc bạc cho nó.
Cách đây tròn một năm, từ ngày tôi vừa đặt chân đến nước Mỹ và sống cuộc đời “share” phòng, em trai tôi là người tình nguyện mỗi buổi chiều chở tôi từ đường Pacific của thành phố Anaheim sang đường Clinton của thành phố Garden Grove để tôi gặp Má tôi, để tôi ăn cơm với Má tôi. Chiều nào cũng vậy. Bất kể trời nắng hay trời mưa, em trai tôi đều có mặt đúng giờ nơi sân trước của ngôi nhà mà tôi đang “share” phòng.
Hai tháng sau, tôi thi bằng lái xe đậu, em trai tôi cho tôi chiếc Toyota Camry mà nó đang lái, nó tặng tôi “một sự khởi đầu may mắn” bằng tình thương yêu đùm bọc của một người em nhỏ. Nó chở tôi đến văn phòng để sang tên xe cho tôi, chở tôi đến dịch vụ Smog Check để kiểm tra khói xe, chở tôi đến chi nhánh bảo hiểm StateFarm để mua “insurance” cho xe. Sau khi tôi nhận được đầy đủ mọi thứ, nó giao hẳn chiếc xe cho tôi và từ đó tới nay, chiếc xe gắn liền với cuộc đời tôi như hình với bóng.
Tóc em trai tôi bắt đầu bạc nhiều. Tôi chỉ cần dùng ngón tay lùa mớ tóc mềm mại của nó lên là thấy hàng chục sợi tóc bạc trắng. Tôi thận trọng nhổ từng sợi, không muốn vì sự cẩu thả của mình mà em trai tôi mất đi một sợi tóc đen oan ức. Tôi đứng sau lưng em trai tôi, tỉ mỉ lựa từng sợi, từng sợi… Nắng chiều mùa hè chiếu trệch cái bóng xuống chỗ hai chị em tôi mà chúng tôi cũng không hề hay biết.
Tôi đứng một hồi, gió chiều se se lạnh, bất chợt trong đầu tôi ngân nga lên giai điệu một bài hát “bất tử” của ông thầy dạy nhạc cũ của tôi: “Nắng hạ đi mây trôi lang thang cho hạ buồn coi khói đốt đồng, để ngậm ngùi chim nhớ lá rừng. Ai biết mẹ buồn vui khi mẹ kêu cậu tới gần, biểu cậu ngồi, mẹ nhổ tóc sâu, hai chị em tóc bạc như nhau”.
Từ ngày tôi qua Mỹ, hai chị em tôi thân thiết với nhau hơn cả những ngày chúng tôi còn ở Sài Gòn. Mỗi buổi chiều muộn, chúng tôi gặp mặt nhau tại gian bếp của Má tôi, mỗi người bới một tô cơm nóng, rồi mạnh ai nấy ngồi lặng lẽ ăn. Trong lúc ăn, hai chị em không nói gì với nhau, nhưng chúng tôi cảm nhận được sự có mặt của “chị” và của “em” trong cuộc đời buồn bã của những người tha hương và xa xứ.
Sau khi ăn cơm chiều xong, thỉnh thoảng tôi lại đi ra ngoài sân nhổ tóc bạc cho em trai tôi. Mỗi khi tôi cúi đầu lom khom, mái tóc dài của tôi lại đổ xuống bờ vai gầy guộc của đứa em trai. Lúc đó tôi mới nhìn thấy rõ hai chị em tôi tóc bạc như nhau… Và tôi cố gắng giấu đi những giọt nước mắt.
(Nguyễn thị Bích Nga)

Friday, May 13, 2011

mất gốc?

Mình thấy vài sự thật xót lòng trong bài này nên mang về:
Tháng 4 năm nay kỷ niệm đúng 36 năm ngày tôi rời SàiGòn. Ngày 29-4-1975 gia đình tôi bứng gốc, bứng rễ bỏ hết tất cả để thoát khỏi Việt Nam trong sự hãi hùng. Khủng hoảng lo sợ đến nỗi nếu cái toilette không có ốc vặn chặt xuống đất thì chắc nó cũng đứng dậy chạy theo. Giây phút đặt chân lên chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ, tôi vui mừng đã đến một bến bờ tự do mới, không quan tâm đến gốc rễ của tôi nữa. Định cư ở quê hương thứ hai, thỉnh thoảng có dịp nói chuyện với bạn bè hay người quen, vài người khuyên nhủ tôi đừng nên mất gốc, hoặc khi đề cập đến vấn đề con cái, khuyến khích chúng tôi dậy con cái tiếng Việt để chúng nó đừng mất gốc.
Cho đến bây giờ tôi không bàn cãi để yên cửa yên nhà, thế nhưng mấy tuần nay vợ tôi than phiền tôi viết lách làm quái gì vì chả mang thêm một đồng xu phụ trội cho ngân quỹ gia đình làm tôi hơi quê xệ. Chỉ còn một cách để bảo tồn danh dự của tôi là tự sát, viết bài này để trình bày quan điểm của tôi. Viết xong tôi bảo đảm thành phần người Việt quá khích sẽ xin tôi tí huyết. Tôi chết đi vợ tôi sẽ lãnh bảo hiểm nhân thọ một triệu đô-la, chứng tỏ cho nàng là lời tiên tri của tôi từ xưa đến nay là đúng: rồi sẽ có một ngày nghiệp viết lách của tôi sẽ làm cho nàng giầu.
Mất gốc là gì? Tự điển Tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Trung Tâm Từ Điển Học ấn bản năm 1994, (xuất bản ở Hà Nội) và Từ Điển Tiếng Việt, Vietlex, 2009 của một nhóm biên soạn, nhà xuất bản Đà Nẵng (cũng xuất bản ở Hà Nội), cả hai cùng định nghĩa:
"Mất gốc: Không giữ được bản chất, cái tốt đẹp vốn có của mình do nguồn gốc dân tộc, giai cấp."
Theo tự điển tiếng Việt 1997-2004 The Free Vietnamese Dictionary Project, http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/ , và http://vdict.com/ , cả hai in cùng một giải thích:
"Mất gốc: Cắt đứt quan hệ với tổ tiên, nòi giống, cơ sở. Thí dụ: Mấy tên mất gốc sống nhờ vào đế quốc Mỹ."
Cùng một chữ “mất gốc” mà tự điển xuất bản ở Hà Nội định nghĩa khác hẳn với tự điển trên Internet ở hải ngoại. Tôi bảo đảm nếu trưng cầu dân ý hay đến những ông bợm nhậu hỏi “mất gốc” là gì thì sẽ có thêm nhiều định nghĩa khác nhau. Nếu tôi nói định nghĩa này đúng, định nghĩa kia sai thì thể nào tôi cũng chết, không vì đạn bên này thì cũng vì lưỡi dao bên kia nên tôi để cho tùy mọi người xét xử “mất gốc” có nghĩa là gì.
Để xem tôi có mất gốc hay không, trước nhất tôi phải tìm hiểu tôi là người gốc gì trước đã. Tôi đang sống ở California, Hoa Kỳ, thế nhưng tôi người da vàng mũi tẹt. 100% tôi không phải là người cùng một gốc với John Wayne, Clint Eastwood hay Brad Pitt. Tôi là An Nam Mít, không cãi vào đâu được. Rất nhiều dữ kiện chứng tỏ tôi là người Việt Nam:
-Tôi sinh ở nhà thương Đức Chính, trên đường Cao Thắng. Lần cuối cùng tôi xem trên bản đồ, đường Cao Thắng chưa bị động đất chạy sang Mỹ mà vẫn còn cắt ngang con đường Nguyễn Đình Chiểu và Điện Biên Phủ (Phan Đình Phùng và Phan Thanh Giản cũ).
-Tên trong căn cước, giấy hôn thú bên Mỹ của tôi vẫn là tên Việt Nam Nguyễn Tài Ngọc (Ngay cả con của tôi, dù rằng sinh ở Mỹ, tôi vẫn đặt chúng nó tên Việt Nam). Đáng lẽ ra chính tôi là người nên đổi sang tên Mỹ, không phải vì tôi muốn người khác tưởng tôi là George Clooney, nhưng vì tên tôi người Mỹ khó đọc. Họ gọi “Ngọc” là “Gờ-Nóp”, “Nóc”. Bao nhiêu tài tử, ca sĩ Mỹ muốn nổi tiếng phải đổi tên của mình như Charles Bronson người gốc Lithuania, tên mẹ đẻ là Karolis Dionyzas Bučinskis. Kirk Douglas, người gốc Nga-Sô, tên mẹ đẻ là Issur Danielovitch. Demi Moore, người Mỹ, tên cúng cơm là Demetria Guynes.
- Nhiều người Hoa ở SàiGòn nói tiếng Việt có sõi đến đâu nhưng khi mình nghe biết ngay họ không phải là người Việt vì họ nói tiếng Việt lơ lớ. Ngày xưa khi vừa mới qua Mỹ, tôi nhủ thầm trong mười năm tôi sẽ nói tiếng Anh như gió. Ấy thế mà 36 năm sau, tôi nói tiếng Anh với giọng… Việt Nam, phát âm đã dở mà viết lách hay đàm thoại cũng chẳng xong, không thua gì một chị ngày xưa trong xóm tôi lấy một anh chàng Mỹ đen. Tôi vẫn còn nhớ khi về nhà nếu cửa bị đóng, chị gõ cửa, miệng nói lớn cho anh ấy nghe: “Hó-nì, ốp bần đo!” (Honey, open door!). Giọng Mỹ siêu việt của tôi hiện thời cũng không hơn chị ấy là bao nhiêu.
Qua ba lý do trình bày trên, cho dù tôi sống ở Mỹ đến hơn trăm tuổi, gốc nòi giống của tôi là Việt Nam không chạy vào đâu được. Có giải tôi vào Khám Chí Hòa hay nhà tù Hỏa Lò Hà Nội nếu tôi nhận tôi là người Việt Nam thì tôi sẽ chẳng mướn luật sư biện hộ. Trước vành móng ngựa, tôi long trọng tuyên bố: gốc của tôi là Việt Nam.
Tôi không chối cãi gốc của tôi, thế nhưng tôi sống ở Mỹ 36 năm, hơn gấp đôi thời gian sống ở SàiGòn. Như thế thì tôi có mất gốc hay không? Trước khi nói đến tôi, tôi muốn nói về con cái của tôi trước. Bạn bè khuyên tôi nên dậy chúng nó tiếng Việt để khỏi bị mất gốc. Lời khuyên dậy chúng nó tiếng Việt thì tôi đồng ý, nhưng lý do thì tôi không đồng ý. Lý do để mai sau nó về Việt Nam tìm vợ thì hữu lý hơn là khỏi mất gốc. Chúng nó sinh ở Mỹ, giữ cái gốc Việt Nam có lợi gì cho chúng nó? Để mai sau nếu nó xin làm công dân nước Việt Nam? Giữ phong tục tập quán Việt Nam làm gì? Dùng nước mắm thay vì muối, ăn hột vịt lộn thay vì hột gà luộc? Tụi nó nói tiếng Anh như người Mỹ, nói tiếng Việt như người Mỹ nói tiếng Việt Nam (cậu con trai tôi chỉ biết có vài chữ tiếng Việt: “chết meẹ rooi”). Tuy rằng một phần gốc của nó là da vàng mũi tẹt, nhưng một phần gốc khác của nó là người Mỹ vì chúng nó sinh ra và lớn lên trong tập quán nước Mỹ. Mất cái gốc nòi giống Việt Nam không quan trọng bằng mất cái gốc sinh ra ở Mỹ vì ưu tiên của chúng nó sẽ dành cho quốc gia nó mở mắt chào đời, quốc gia bảo đảm an ninh và nhân quyền, quốc gia cho chúng nó tất cả mọi cơ hội sinh sống từ bé đến lớn. Quốc gia đó không phải là Việt Nam.
Giờ thì đến phiên tôi. Tôi có mất gốc hay không? Nếu theo định nghĩa mất gốc là cắt đứt quan hệ với cơ sở, tôi đã mất gốc. Cơ sở, nhà cửa của tôi bây giờ là ở Mỹ. Căn nhà số 16/38/25 Nguyễn Thiện Thuật vĩnh viễn không còn là của gia đình tôi nữa. Nó đã có chủ mới. Gia đình tôi không bao giờ lấy nó lại được vì không ai điên dại nhận thức mình phạm lỗi tước đoạt tài sản người khác rồi trả lại cho chúng tôi. Lần đầu tiên trở lại SàiGòn vào xem nhà, tôi công nhận có bùi ngùi và có cảm tưởng mình đã trở về nhà cũ. Nhưng rồi lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, càng ngày tôi càng cảm thấy xa lạ, nhất là lần cuối cùng người chủ hiện thời đã phá xập hoàn toàn, xây lại một căn nhà mới. Đứng nhìn căn nhà hình dạng không còn như xưa, ngay cả bảng số nhà cũng thay đổi, tôi không còn cảm thấy liên hệ với nơi tôi khôn lớn nữa. Ngược lại khi trở về Mỹ, máy bay đáp xuống phi trường LAX, lái xe về nhà thấy bóng dáng căn nhà ở Simi Valley, tôi mừng rỡ đã về nhà. Nhà của tôi là ở Mỹ, cơ sở của tôi là ở Mỹ. Tôi đã mất gốc cơ sở ở Việt Nam.
Nếu nói mất gốc là cắt không giữ được bản chất, cái tốt đẹp vốn có của mình thì tôi xin phân tích bản chất tốt đẹp hay không của người Việt Nam mà tôi đã chứng kiến, có kinh nghiệm tiếp xúc, trong ba giai đọan:
1. Thời gian tôi ở SàiGòn từ lúc sinh đẻ cho đến ngày 30-4-1975.
2. Thời gian tôi sống và sinh hoạt chung với người Việt tỵ nạn từ ngày 30-4-1075 đến ngày 11-7-1975, khi tôi rời trại tỵ nạn ra sống trong xã hội Mỹ.
3. 36 năm tôi sống ở Hoa Kỳ , từ ngày 11-7-1975 cho đến ngày hôm nay.
1.Thời gian tôi ở SàiGòn từ lúc sinh đẻ cho đến ngày 30-4-1975
Tôi rời SàiGòn năm lên 17 tuổi. Ở Mỹ, 17 tuổi vẫn còn là con nít, vẫn còn dưới tuổi trưởng thành. Hai người 18 tuổi trở lên liên hệ tình dục không luật pháp nào ngăn cấm, nhưng nếu người trên 18 tuổi liên hệ tình dục với người dưới 18 tuổi thì sẽ bị ghép vào tội dụ dỗ trai/gái dưới tuổi vị thành niên, dù rằng người dưới 18 tuổi thỏa thuận. Dưới 18 tuổi chưa được đi bầu. Dưới 18 tuổi chưa được phép uống bia rượu. Tóm lại, dưới 18 tuổi đầu óc vẫn còn non nớt.
Ấy thế mà tôi đã mục kích bao nhiêu sự xấu xa ở quê hương tôi:
- Một anh lính tài xế trong xóm tôi mang xe Jeep về nhà hút xăng trong xe ra rồi bán lại cho người trong xóm với giá rẻ.
- Gia đình nào có con cái đến tuổi quân dịch chạy tiền thì sẽ được miễn dịch. Trong khi người Mỹ đổ máu cho tự do của miền Nam, tướng Mỹ có con đi lính chết ở Việt Nam thì một số tướng lãnh và người giầu có cho cho con cái ra nước ngoài. Chỉ có lính nghèo là đổ máu.
- Tôi đi gác nhân dân tự vệ phải gác thế cho người đóng tiền trong khi các cấp chỉ huy hệ thống Nhân Dân Tự Vệ lấy tiền thu.
- Tổng Thống và Phó Tổng Thống VNCH đều là những bậc tướng lãnh. Khi trận chiến Cộng Sản thôn tính miền Nam đến mức quyết liệt, Tổng Thống lên trước quốc dân tuyên bố sẽ chiến đấu sát cánh bên dân, Phó Tổng Thống lên tuyên bố trước quân đội VNCH và cả thế giới là “Tôi thích ăn nước mắm, tôi quyết sẽ ở lại với quê hương tôi tử thủ đến mức cuối cùng”. Ấy thế mà trước khi xe tăng Cộng Sản phá vỡ cửa sắt Dinh Độc Lập, Tổng Thống và đại gia đình đã yên lặng đi ngoại quốc mang theo cả một máy bay đầy của cải, Phó Tổng Thống cũng rời khỏi SàiGòn bay đến một chiến hạm Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ. Một quốc gia với dân tình tham nhũng là một lối sống. Một quân đội cá tính từ Binh Nhì đến Trung Tướng chỉ lo cho cá nhân của mình thì cái tốt đẹp vốn có của mình do nguồn gốc dân tộc không còn hiện hữu.
- Miền Bắc dùng võ lực thôn tính miền Nam gây ra bao nhiêu tử vong.
2. Thời gian tôi di tản từ 30-4-1075 đến ngày 11-7-1975
Bài “Chí Nam nhi” của Nguyễn Công Trứ có bốn câu thơ như thế này:
"Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ."
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh có nghĩa là Từ xưa đến nay hỏi có ai không chết? Hãy để lòng son chiếu sử xanh. Hai câu thơ tiếng Hán này là của Văn Thiên Tường, một tướng lãnh của Trung Hoa. Hai câu thơ sau, ý của tác giả là người ta chỉ biết anh hùng sau khi thời thế xẩy ra.
Tôi kém may mắn tìm hiểu được bản chất của người đồng hương trong cơn ly loạn:
-Hỗn loạn dành đường sống cho riêng mình.
-Ăn cắp chai tương ớt, xì dầu ở nhà ăn trong trại tỵ nạn đem về phòng ngủ barrack của mình dù rằng người Mỹ nói như van lậy thức ăn không thiếu thốn.
-Nếu có dịp là lừa gạt nhau bằng những trò gian dối như dụ mua vàng bạc giả, đồ giả, khi bị trách cứ thì tỉnh bơ, không biết xấu hổ.
-Lấy hết chăn trên máy bay, khi vào trại mang chăn ra cắt may thành áo lạnh, đến nỗi người Mỹ không mang chăn trên những chuyến máy bay sau nữa.
-Những người muốn trở lại Việt Nam (dùng con tầu Trường Xuân) đã nổi loạn, đốt cháy cơ sở vì người Mỹ quá chậm trong việc cung cấp lương thực và sửa sang máy móc cho con tầu.
-Orote Point: dân tỵ nạn ở trong lều quân đội, đôi lúc phải giặt quần áo rồi phơi ở bên ngoài lều. Phơi mà không có người nhà canh chừng thì bao nhiêu quần áo cũng bị mất cắp.
-Cũng ở Orote Point, người Mỹ họ cắt nửa thùng phi làm thùng giữ phân và nước tiểu ở những toilette gỗ, xây dã chiến. Lính G.I. là người đi đổ và lau rửa toilette. Không hiểu tại sao mà người Việt tỵ nạn không đi tiêu vào thùng phi mà tiêu tiện đầy lên chỗ phản ngồi bằng gỗ. Cuối cùng, họ bắt người tỵ nạn chia phiên nhau lau rửa và đổ thùng phân vì họ nói mãi nhưng chẳng ai nghe.
-Người gạt người, thân hay lạ, trong việc đóng tiền vượt biên.
-Và sau cùng, một cảnh gia đình tôi mãi không bao giờ quên. Bên cạnh chỗ ngồi của gia đình tôi trên chiếc tầu chiến Mỹ đi từ Vũng Tầu đến Subic Bay là một gia đình khá giả. Họ đã chuẩn bị sẵn nên mang theo lương thực, nước uống, sữa Guigoz…đầy đủ cho người lớn và trẻ em trong gia đình. Một chị trên tầu có con nhỏ, không có sữa cho con mình bú nên đến xin một người đàn bà trong gia đình này cho chị ta một chút ít sữa cho con. Người đàn bà nhìn chị ta, nói rằng không cho sữa không, nhưng sẽ bán nếu chị ấy trả tiền bằng sợi dây chuyền vàng đeo trên cổ. Chị kia tháo sợi dây chuyền để đổi sữa cho con!
3. 36 năm tôi sống ở Hoa Kỳ, từ ngày 11-7-1975 cho đến ngày hôm nay
Vào năm 1994, khi trận động đất ở Northridge gây thiệt hại trầm trọng cho nhiều thành phố, kể cả Simi Valley, FEMA (Federal Emergency Management Agency- Cơ Quan Quản Lý Khẩn Cấp Liên Bang) đến Simi Valley thiết lập trụ sở cứu giúp. Vợ tôi làm cho County, tình nguyện làm giúp FEMA. Một trong những sự trợ giúp khẩn cấp là thức ăn. Động đất gây ra cúp điện, thức ăn trong tủ lạnh do đó sẽ bị hư. Nhà ai thức ăn bị hư thối đến điền giấy tờ (chỉ có một vài chi tiết: tên tuổi và địa chỉ) thì FEMA sẽ phát cho một thẻ phiếu trị giá $120 dollars. Cầm thẻ phiếu này đến bất cứ siêu thị nào mua sắm thức ăn dùng nó để trả tiền, siêu thị sẽ lấy vì họ sẽ tính tiền lại với chính phủ.
Vợ tôi thấy một người đàn bà Việt Nam đến xin hai lần. Lần thứ nhất một mình nhưng lần thứ hai mang theo một lô người Việt Nam nữa. Vì không biết vợ tôi là người Việt Nam, bà ta vừa cầm giấy ghi tên phân phát cho những người đó vừa nói: “Tụi bay cứ đề tên vô, địa chỉ thì ghi đại số nào cũng được, không ai xét hết. Tủ lạnh nhà mình không bị cúp điện, thức ăn không hư, họ cũng cho mình $120 vì không cách nào mà họ xét được”.
Ai có đọc báo Mỹ thỉnh thoảng sẽ thấy người Việt Nam bị bắt vì tội gian lận. Nhân viên an sinh xã hội khai gian chính phủ bỏ tiền giúp người nghèo vào quỹ riêng của mình, hơn một triệu đô-la. Một bà khai sổ sách cho một hãng xe ở Van Nuys biển thủ bạc triệu. Người làm giấy tờ cho mượn tiền mua nhà khai gian với nhà băng mấy triệu. Văn phòng y khoa khai gian Medical cả trăm nghìn. Một số người có cơ sở thương mại trốn thuế. Không lúc nào mà không có tin xấu. Người Mỹ đã làm ơn, cho người Việt chúng ta một cơ hội sống trong tự do. Thay vì trau giồi nhân bản đạo đức của mình để họ hãnh diện đã không lầm khi cho phép người mình sang đây, chúng ta làm ngược lại.
Tôi biết một ông Việt Nam lớn tuổi, lúc nào cũng cay cú người Mỹ là nguyên nhân làm cho Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ (hoàn toàn không phải lỗi vì người Việt tham nhũng hay không có tinh thần chiến đấu!) , một lần nói với tôi là: “Tổ cha mấy thằng Mỹ! Tụi nó điếm lắm!”. Đây là một cá tính tôi thấy của người Việt: không bàn cãi một vấn đề với lý luận, tri thức nhưng với bướng bỉnh. Khi sai không nhận là mình sai, chụp mũ người khác, dùng từ ngữ hạ cấp chửi đối phương, và đôi lúc còn dọa đánh người ta nữa.
Đây là gốc Việt Nam, tôi không nên mất gốc?
Cách đây vài tháng, tôi có viết một bài phê bình “Xem Paris By Night 99: Tôi là người Việt Nam”, đăng trong Saigonocean.comhttp://www.saigonocean.com/trangNguyenTaiNgoc/vanNTN.htm.
Paris By Night hay ASIA là những chương trình nhạc được người Việt hải ngoại ưa chuộng, và như thế ít ra cũng phản ảnh một phần nào dư luận của người Việt. Chủ đề của DVD này là hãnh diện vì tôi là người Việt Nam. Tôi tóm tắt ba nhận xét chính sau đây:
1. Hầu hết những người Việt Nam được vinh danh trong DVD này cảm ơn bố mẹ họ, gia đình họ… làm việc siêng năng cần cù để bây giờ họ được thành công. Không một ai cám ơn chính phủ Mỹ, dân tộc Mỹ đã cho họ có một cơ hội sang đây. Bố mẹ hay chính bản thân họ có cần cù đến đâu mà nếu họ vẫn còn ở Việt Nam, không ở Mỹ thì họ có thành công như bây giờ không?
Bài học “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” quá đơn giản nhưng rất ít người nhớ.
2. Ông “vua nail” Quý Tôn tuyên bố là ông ta ước ao những người làm nail đoàn kết để nâng cao giá cả. Tôi ngồi nghe há hốc miệng kinh hoàng trong khi cả hí viện vỗ tay ầm ầm, kể cả người hướng dẫn chương trình. Chỉ có chính thể Cộng Sản xưa cũ mới ấn định giá cả hàng hóa. Giá cả do nhà nước ấn định như trong các nước Cộng Sản ngày xưa (và cả Việt Nam trước khi Đổi mới vào năm 1986) đưa tới kinh tế sụp đổ, dân tình đói kém. Từ khi khối Cộng Sản Nga-Sô sụp đổ, Nga không còn ấn định giá cả. Đặng Tiểu Bình sau khi sang Mỹ viếng thăm Tổng Thống Jimmy Carter vào năm 1979, kinh hoàng trước sự giầu có của nước Mỹ, về Trung Hoa áp dụng chính sách free market, thị trường cạnh tranh ấn định giá tin. Kết quả: không ai có thể phủ nhận Trung Hoa tiến vượt bực chỉ trong vòng 30 năm nay. Việt Nam bắt chước Trung Hoa, áp dụng chính sách Đổi Mới vào năm 1986, nhà nước không còn áp dụng giá cả. Chỉ cần hỏi một người sống ở Việt Nam so sánh sự khác biệt trước Đổi Mới và bây giờ để xem chính sách nhà nước ấn định giá cả có hữu hiệu hay không. Thế mà khi nghe ông “vua nail” Quý Tôn nói, không một ai chửi bới mà vỗ tay ầm ầm!
Đây là một “tốt đẹp” trong giòng máu Việt của tôi mà tôi không nên mất gốc?
3. Paris By Night là một cơ cấu thương mại, tổ chức ca nhạc thu tiền bán vé, bán DVD để lấy lời. PBN tạo ra một chủ đề kích thích dân tộc tính để thu hút khán giả, bán DVD. Khi bắt đầu DVD phần 2, Nguyễn Ngọc Ngạn còn nhân cơ hội để quảng cáo bán sách viết mới nhất của mình. Dùng một niềm tự hào chung -hãnh diện tôi là người Việt Nam- để làm tiền gây lợi riêng mà không một ai thấy ngứa tai gai mắt?
Theo tự điển Tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, “mất gốc” là không giữ được bản chất, cái tốt đẹp vốn có của mình. Nếu những kinh nghiệm với người Việt Nam trên đây tôi đã chứng kiến trong cuộc đời được gọi là tốt đẹp, thì vâng, xin cho tôi mất gốc.
April 2011

Thursday, March 17, 2011

bao la tình mẹ

Tôi sinh năm 1968 nay đã 43 tuổi, thực sự “gìa đầu” rồi mà tôi vẫn còn được mẹ chăm sóc, thay quần áo, tắm rửa, gội đầu, bón cơm, thay tã lót cho như một em bé sơ sinh. Tôi chính thật là đứa con được mẹ thương yêu nhất trần gian. Nhiều đêm bệnh hành hạ không ngủ được, dõi mắt nhìn mẹ tóc bạc da mồi nằm giường bên, đang thiếp ngủ mệt, sau một ngày vất vả lo cho con.
Tôi thật đau lòng! Buồn lắm! Thương mẹ đến chảy nước mắt, tôi thì thầm khẽ gọi:
-Mẹ ơi, mẹ có biết con yêu mẹ vô ngần. Tình mẹ cho con bao la trời biển, cả cuộc đời mẹ đã đổ bao nhiêu nước mắt, xót thương đứa con kém may mắn nhất của mẹ. Mẹ ơi, con không thể nào sống được khi thiếu mẹ, vì mẹ là hơi thở, là mắt, là tay, là chân của con …
Đã bao lần tôi tự nghĩ và hiểu là nếu tôi chết đi, mẹ sẽ đau buồn lắm. Nhưng nỗi buồn của mẹ rồi sẽ nguôi ngoai theo thời gian. Chẳng hơn là hằng ngày mẹ phải nhìn thấy tôi sống tật nguyền đau đớn, với hình hài chẳng khác nào bộ xương cách trí, được che dấu dưới manh quần tấm áo và đôi bí tấ...
Như một bà Tiên có phép thuật, mẹ biết tôi đã nghĩ đến cái chết, nên bà thường hay nói với tôi rằng :
- Con là lẽ sống của mẹ, cả đời mẹ được chăm sóc con như một em bé mẹ rất hạnh phúc.
- Con cần can đảm sống để đối diện, thi gan, thử thách với bệnh tật.
- Chẳng phải y khoa đang theo dõi từng biến chuyển trên thân xác con, chẳng phải con đã mong ước chờ đến ngày khoa học tìm ra thuốc chữa căn bệnh “Muscular Dystrophy” quái ác này. Vậy thì ít nhiều khoa học cũng cần dựa trên thử nghiệm, và trên cả thời gian là bao lâu con can đảm sống chờ đợi và hy vọng. Con hãy nói với Chúa: “Here I am, Lord; I come to do your will .”
Tôi thương mẹ và vâng lời, nên Chúa đã phải nghe tôi yếu đuối tuyên xưng đức tin, mỗi khi tôi cần tự xoa dịu đau đớn, cần có sức chịu đựng nỗi thống khổ mà tôi không thể tự vất bỏ đi được. Ngay cả đến con ruồi, con muỗi bé tí tẹo chúng cũng có thể tự do hành hạ tôi, cho đến khi mẹ tôi ra tay cứu giúp, đuổi chúng đi.
Nói chính xác là tôi đã tồn tại trên thế gian này 43 năm, cũng là một phép lạ, một sự tỏ rõ quyền năng của đấng tạo hóa có quyền ban sự sống cho con người, và Ngài chưa muốn đem tôi ra khỏi thế gian này, tôi còn phải sống bằng cách này hay cách khác trong khổ đau. Tôi nghĩ bất cứ người nào nhìn thấy tôi, cũng đều rất ái ngại và thầm nghĩ : “phải sống như thế thà chết sướng hơn”.
Thử hỏi còn gì đau khổ bằng khi tôi vẫn còn có đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, cái miệng để gọi mẹ suốt ngày và nhất là còn có cái đầu tỉnh táo biết thương nhớ, giận hờn, biết cảm nhận niềm vui, nỗi buồn, biết phân biệt phải trái, đúng hay sai, biết đói, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết đau đớn tê dại, biết nhờm gớm khi đã tiêu, tiểu ra tã v.v...
Nói tóm lại, khuôn mặt và bộ não của tôi trong 43 năm qua vẫn nguyên vẹn, bình thường, không bị ảnh hưởng bởi bệnh “Muscular Dystrophy”, một chứng bệnh làm teo dần các cơ bắp, mà tôi đã mắc phải từ năm lên chín hay lên mười tuổi.
Cha tôi là Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mẹ tôi là Công Chức. Ngày 30-4-1975 Cộng sản miền Bắc cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam, thì đến ngày 29-5-1975 cha tôi phải đi trình diện “Học Tập Cải Tạo”, lúc đó mẹ tôi mới sinh em bé thứ tư được một tháng và tôi là đứa con lớn nhất mới được 7 tuổi. Lệnh bắt cha đi “học tập” nghe nói Thiếu Tá học một tháng thì về. Nhưng mà thời gian cha tôi phải “học” trong các trại tù cải tạo lâu lắm, lâu gấp 120 lần thời gian VC gian dối nói là cha tôi đi học chỉ có một tháng, trong khi cha đã học hết 5 năm ngoài Bắc, còn phải học thêm 5 năm trong Nam nữa, mới được tha về gặp lại mẹ và 4 anh em chúng tôi năm 1985.
Ngày cha đi tù cải tạo, tôi vẫn còn mạnh khỏe, hay ăn chóng lớn theo tuổi đời và phát triển bình thường như bao trẻ khác. Vậy mà hai, ba năm sau, chẳng biết tôi mắc phải chứng bệnh gì, cơ thể sinh ra yếu đuối, tay chân rệu rã, đi đứng không được vững vàng. Chỉ cần một sự va chạm nhẹ vào người tôi của ai đó, tôi cũng ngã lăn ra và khó khăn lắm mới đứng dậy được. Còn va chạm mạnh thì u trán, vỡ đầu. Vì thế trong thời gian còn đi học, thầy hoặc cô giáo đã phải đem tôi đến trạm xá hay nhà thương khâu vài mũi hay nhiều hơn, cho nên trên đầu tôi mới có nhiều vết sẹo lớn, nhỏ.
Khi tôi bắt đầu phát bệnh khoảng chừng vào năm 1978 hay 1979 gì đó, thời gian này người ta đồn ầm lên là trong Chợ Lớn có một ông Thầy rất tài giỏi, chữa bệnh theo cách văn minh tân tiến, không cần dùng thuốc mà dùng “xung điện” để chữa trị. Lúc đó tôi nào biết “xung điện” là gì. Chỉ biết là người thầy “tài giỏi” này dùng hai tay đặt lên đầu, lên vai bệnh nhân để chuyền “điện” của ông (gọi là nhân điện) chạy qua cơ thể người bệnh, gặp “điện” của bệnh nhân. Hai luồng “điện” này gặp nhau, thì xảy ra “xung điện” diệt trừ căn bệnh. Cách điều trị giản dị chỉ có thế thôi. Bất kể là bệnh gì.
Thầy chữa bệnh làm phước, không lấy tiền (nhưng thầy vui vẻ nhận quà cáp bệnh nhân đem đến), vì vậy số bệnh nhân đến xin được Thầy chữa bệnh mỗi ngày rất đông. Nhà tôi ở xa, mẹ con tôi phải ra khỏi nhà từ 4 giờ sáng, đến địa điểm xếp hàng lấy số thứ tự cùng một đám đông người. Chờ tới khoảng 8 giờ thì Thầy đến cùng với người phụ tá. Người phụ tá gọi từng đợt 10 người theo số bắt đầu từ 1 đến 10, bệnh nhân trong số được gọi, mau mắn vào trong ngồi xếp thành vòng tròn, để Thầy đi chung quanh đặt tay lên đầu, lên vai truyền “điện” cho nhanh chóng .
Sáng nào cũng vậy, mẹ tôi cứ phải dùng khăn ướt lau mặt cho tôi: đứa bé 10 tuổi còn đang say ngủ, có như vậy tôi mới chịu tỉnh ngủ mở mắt ra, và mẹ mới lôi được tôi đến bên chiếc xe đạp xe đạp mini cũ kỹ, xốc tôi ngồi lên, bắt vòng tay ôm lưng mẹ cho chặt, để mẹ chở vào Chợ Lớn nhờ thầy truyền “điện”, tạo “xung điện” giúp cho cơ thể tôi cứng cáp, mạnh khỏe trở lại. Ngày nào mẹ tôi làm việc vất vả quá mệt, ngủ quên đến 6, 7 giờ sáng mới thức dậy, thì phải đi vội vã lắm. Và hôm ấy, nhanh nhất cũng phải đến 2, 3 giờ chiều, mẹ con tôi mới về đến nhà, rất mệt mỏi và đói khát. Tôi không thích thú và tin tưởng vào sức mạnh “nhân điện” của thầy, nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn theo mẹ mỗi ngày đi chữa bệnh cho mẹ vui lòng, nhất là bà Nội tôi lại luôn nói :“có bệnh phải chịu khó chạy đi vái tứ phương cháu ạ”.
Dù có phải “vái bệnh” vất vả tứ phương mẹ tôi cũng không ngại, nhưng sau mấy tháng nghỉ hè kiên trì theo Thầy, mà bệnh tình của tôi cũng không thấy có được một chút kết quả nào, mẹ con tôi đành bỏ cuộc, khi năm học mới đã bắt đầu. Thời gian này, mẹ tôi chở tôi đến cổng trường bằng chiếc xe mini cọc cạch, từ cổng trường tôi có thể tự đi vào lớp. Nhưng rồi sau đó, đã có vài lần tôi tuột khỏi xe, ngã xuống đường rất nguy hiểm, nên mẹ không dám chở tôi đi học bằng xe đạp nữa, bà phải cõng tôi đến trường, đưa tôi vào tận chỗ ngồi trong lớp học. Đến giờ tan học, mẹ lại bỏ công bỏ việc chạy vội đến lớp cõng tôi về, bất kể ngày nắng, ngày mưa. Muốn tôi đi học, mẹ phải cõng thôi, vì hai chân tôi bây giờ chỉ còn khả năng đi được khoảng vài mươi bước, có người đi kèm cặp bên cạnh.
Đi học mà hành mẹ tôi như thế tôi thấy ái ngại và xấu hổ lắm, nên đã nhiều lần tôi xin mẹ cho tôi nghỉ học, nhưng mẹ tôi cương quyết không cho, mẹ nói: bệnh tật như con càng phải học nhiều hơn. Con và mẹ chúng ta cùng cố gắng: mẹ cố gắng lo cho các con có cơm ăn áo mặc, các con cố gắng học chăm học giỏi, hãy nghĩ đến cha đang bị tù đày. Và mãi đến khi tôi tốt nghiệp cấp 2, phải thi vào cấp 3 không đậu, một phần vì bệnh tật, một phần vì cái “tội” con Thiếu Tá “ngụy”. Đến lúc này mẹ tôi mới đành chịu bó tay và buồn lắm, khi tôi không được tiếp tục việc học nữa.
Không đi học ở nhà quanh quẩn với bà Nội, bệnh tôi cứ vậy tăng thêm theo ngày tháng. Đến năm 1988 hai chân tôi không còn có thể đứng thẳng mà lê bước, ngay cả khi tôi dùng hai tay vịn, men theo điểm tựa mà nhấc chân đi cũng không được nữa. Muốn di chuyển quanh nhà, tôi phải ngồi xe lăn hoặc ngồi bệt xuống đất, dùng mông và hai tay chống mà lết đi, khi tôi tròn tuổi hai mươi, rất thèm đi đứng chạy nhảy với chúng bạn.
Năm 1991, gia đình tôi được qua Mỹ định cư theo diện H.O # 8. Ngay sau khi được cấp thẻ Medi-Cal, mẹ tôi đã sốt sắng đưa tôi đi chữa bệnh. Gặp bác sĩ gia đình giới thiệu tôi đến bác sĩ chuyên khoa, rồi ông chuyên khoa giới thiệu đến cả bệnh viện này, nọ. Cuối cùng tôi được chuyển đến Bệnh Viện của trường University of California of San Diego (UCSD) để khám toàn khoa, và làm tất cả những xét nghiệm cần thiết, kể cả thử DNA (Deoxyribonuleic Acid). Kết quả cho biết là tôi bị bệnh “Muscular Dystrophy - Backer”, một chứng bệnh làm teo dần bắp thịt (chỉ xảy ra cho nam giới). Bệnh này được tìm ra bởi vị bác sĩ tên Becker (M.D Becker).
Khi định được bệnh rồi, bác sĩ cho biết căn bệnh quái ác này vẫn chưa có thuốc ngăn ngừa và chữa trị, mặc dù cả thế giới, đặc biệt là nước Mỹ đã và đang nỗ lực nghiên cứu. Trong tuyệt vọng, tôi thầm cầu nguyện và rất hy vọng một ngày nào đó, các nhà khoa học sẽ tìm ra thuốc chữa trị và thuốc ngăn ngừa, để thế giới loài người không còn có ai bị mắc bệnh “Muscular Dystrophy” nữa.
Cha tôi vận rủi ngã ngựa, bị VC bắt nhốt tù 10 năm, cho tôi vận may đến được nước Mỹ, một xứ sở văn minh, giàu có và nhân ái nhất thế giới. Nên dù bệnh tật của tôi nan y không thể chữa trị, tôi cũng được an ủi phần nào, vì không phải lo lắng, chẳng biết làm gì để kiếm được miếng ăn, không phải lo sống đời tủi nhục như ở Việt Nam. Bởi vì chính phủ Mỹ có chương trình giúp đỡ những người bệnh tật, không còn khả năng lao động như tôi được chăm sóc sức khỏe, được ăn no, mặc ấm, được hưởng tiền bệnh tật, gọi là tiền SSI (Supplemental Security Income).
Tôi không có khả năng lao động nữa, nhưng mẹ tôi quả quyết: tôi vẫn có khả năng đi học để mở mang kiến thức, tránh thì giờ buồn chán, và để có thể học cho mình một ngành nghề, chỉ cần xử dụng khối óc và hai tay (khẳng khiu yếu đuối) học về văn thơ, hay học về computer chẳng hạn, còn hai chân thì cứ kệ cho nó lười biếng đặt trên xe lăn…
Nghe mẹ nói vậy, tôi cốù tảng lờ đi. Nhưng mẹ tôi không bỏ cuộc, bà cứ theo khuyến khích, thuyết phục tôi mãi bà nói:
-Học vấn rất cần thiết cho con. Tri thức đưa con đến với thế giới bao la, cho con đời sống vui vẻ hơn, hạnh phúc hơn. Con thử nghĩ xem, tại sao mẹ đã luống tuổi rồi mà còn đi học, với mơ ước sẽ tốt nghiệp “Medical Assisstant” để biết lối mà chăm sóc cho con một cách khoa học, và mẹ còn mơ ước xa hơn nữa, là được tình nguyện săn sóc những bệnh nhân hoạn nạn, tàn tật ở những nước nghèo đói, khi mẹ có điều kiện và hoàn cảnh cho phép.
Tấm gương hiếu học của mẹ đã nâng đỡ, khuyến khích tôi, nhưng chủ đích cũng vẫn là để làm vui lòng mẹ, nên tôi đã theo mẹ đến trường Mesa College làm thủ tục nộp đơn xin nhập học. Việc đơn từ ở trường, mẹ tôi rành lắm vì bà đã theo học ở Mesa College từ năm trước rồi, tôi không phải lo lắng gì cả đã có mẹ giúp đỡ.
Những năm tháng hai mẹ con tôi theo học ở trường Mesa College tràn đầy thử thách, nhiều lúc tưởng đâu đã phải bỏ cuộc, không kham nổi những vất vả khó khăn, trần ai lắm khi đi học.
Trong diện dân nghèo “low income”, mấy mẹ con chúng tôi chỉ thuê được căn hộ trên lầu của một Apartment. Nên mỗi ngày đi học, mẹ tôi phải thức dậy từ rất sớm, dọn dẹp nhà cửa, lo điểm tâm cho cả nhà, lo nhắc nhở các em gái tôi đừng để lỡ chuyến xe Bus, phải đi học cho đúng giờ ,v.v…
Khi các em gái tôi đã ra khỏi nhà đi học, lúc đó bà mới đem cặp sách của tôi và mẹ xuống dưới lầu, cất bỏ vào trong xe trước, rồi đi trở lại nhà trên lầu, bồng tôi trên hai tay đi ra cửa và đưa chân đá cho cánh cửa đóng khóa lại, rồi khệ nệ bồng tôi xuống thang lầu, đặt tôi vào xe, kéo dây an toàn gài móc vào cẩn thận cho tôi, rồi bà mới ngồi vào ghế tài xế.
Từ nhà tôi, mẹ lái xe chạy khoảng 20 phút thì đến trường. Đậu xe vào parking của trường xong xuôi, bà ra sau xe mở “cốp” xe lên, lôi chiếc xe lăn ra ráp lại cho ngay ngắn, vững chắc, rồi mới mở cửa xe, nghiêng người vào bồng tôi ra, đặt ngồi trên xe lăn và đẩy tôi đến lớp học của tôi, tìm chỗ để xe của tôi vào đâu cho thuận tiện nhất, rồi mẹ mới đi đến lớp của bà.
Trong lớp học, vì hai tay tôi yếu, rất khó khăn “take note”, nên nhà trường trả tiền “work study” cho một sinh viên, giúp tôi ghi chép vào “note book” những lời thầy giảng dậy hay dặn dò làm “home work” ở trang nào, sách nào, và hết buổi học thì đẩy tôi đến lớp kế tiếp hay lên phòng Lab …
Khi tan học, mẹ lại vội vôi vàng vàng chạy đến đón tôi ở phòng Lab hay ở lớp học cuối cùng nào đó. Lại đẩy xe lăn tôi ra Parking, bồng tôi vào xe, cài dây an toàn, đem cất xe lăn vào “cốp” xe và lái về nhà. Về đến nhà, tôi vẫn ngồi trên xe, chờ mẹ tôi đem cặp sách của hai mẹ con lên nhà trước, sau đó mẹ mở sẵn cửa phòng, rồi mới trở xuống xe, ì ạch bồng tôi bước 18 bậc thang lên tầng lầu. Vào trong nhà, đặt tôi lên giường xong, mẹ thường phải thay tã cho tôi ngay. Sau đó hỏi tôi có muốn ăn hay uống gì không để mẹ lấy.
Lo cho tôi tạm xong, mẹ bắt đầu làm việc nhà, làm đủ thứ việc không tên, rồi lại đi học thêm một, hai lớp nữa, còn tôi ở nhà lo làm “home work” và chờ mẹ về lo bữa ăn tối cho cho cả nhà.
Mùa Đông nước Mỹ có nhiều ngày mưa phùn gío rét, tôi muốn nghỉ học ở nhà lắm, nhưng mẹ tôi vẫn cương quyết không bỏ lớp nào, nhất định chịu ướt, chịu lạnh bồng bế tôi lên, xuống thang lầu và đi học rất đúng giờ. Nhằm mùa học không có lớp ban ngày, trùng giờ cho cả hai mẹ con, chúng tôi phải chọn lớp đêm để học. Mùa Đông trời mau tối và ban đêm rất lạnh, có khi mẹ bồng tôi đặt được vào xe rồi, là cả hai mẹ con ngồi run cầm cập, thế mà xe lại phải mở máy lạnh cho kiếng trong xe hết mờ, sáng trong trở lại mới thấy đường mà lái xe về nhà, những lúc ấy mẹ luôn xuýt xoa nói:
-Tội nghiệp con quá, con ráng chịu lạnh một tí mẹ mở lại heat là ấm ngay nhé !
Đâu phải một mình tôi lạnh, mẹ cũng lạnh vậy, nhưng mẹ không lo cho mẹ mà chỉ nghĩ đến con. Mẹ con tôi chịu đựng vất vả như thế trên con đường trau giồi kiến thức. Và mẹ đã tốt nghiệp “Medical Assisstant” hồi tháng 5 năm 1997. Tôi rất hãnh diện về mẹ.
Và tôi cũng tự hãnh diện về mình, khi được nhận mảnh bằng AS “Associate of Art” ngành “Computer Information Science” vào tháng 6 năm 2000. Mảnh bằng này rất khiêm tốn, nhỏ bé, nhưng tôi có được nhờ vào tất cả công lao khó nhọc của mẹ. Mẹ đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt cho con niềm tin, niềm tự hào còn có mẹ nâng đỡ ủi an. Ngoài mảnh bằng tôi có được sau 6 năm, (trong khi người bình thường chỉ cần 2 năm) tôi còn học được thêm bài học “vượt gian khó” quý gía, và biết ý thức cần phải học vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Cầm được mảnh bằng AA nhỏ bé trong tay, tôi tự tin và mơ ước đến ngày sẽ cầm được mảnh bằng lớn hơn là BA hoặc BS (4 năm Đại Học) thì căn bệnh “ Muscula Dystrophy” trầm trọng hơn, theo thời gian đã làm teo hết các cơ bắp vùng ngực và lưng, ép phổi tôi teo lại, khiến tôi ngộp và khó thở, nguy hiểm đến tính mạng.
Tôi được đưa ngay vào bệnh viện “SHARP”, bác sĩ trách nhiệm đã khuyên tôi phải chọn một trong hai giải pháp:
1. Không cần sự can thiệp của khoa học, chấp nhận sự rủi ro sẽ đến. Có nghĩa là tôi sẽ chết ngộp bất cứ lúc nào.
2. Phải phẫu thuật, mở một lỗ nơi cổ, đặt ống gắn máy trợ giúp cho sự hô hấp. Như vậy mối nguy hiểm sẽ bớt đe dọa tính mạng và sự sống của tôi sẽ được dài thêm.
Thương mẹ, tôi đã chấp nhận giải pháp thứ hai.
Trước khi mổ, mẹ và tôi đã phải ký giấy chấp nhận mọi tình huống có thể xảy đến với tôi, kể cả tôi sẽ “ngủ” luôn trong ca mổ, không bao giờ thức dậy nữa. Mười giờ sáng ngày ấn định mổ, mẹ đẩy xe lăn đưa tôi đến nhập viện. Mẹ đã cầm hai bàn tay khẳng khiu của tôi, ôm hôn trán tôi trước khi hai bà y tá đẩy tôi vào phòng mổ, còn mẹ được hướng dẫn xuống lầu, đến phòng chờ đợi chờ kết quả ca mổ kết thúc (tốt đẹp hay xấu). Tại phòng chờ đợi, vì lo cho tính mạng của con, mẹ đứng ngồi không yên, đi ra đi vào bồn chồn đếm thời gian từng phút chậm chạm trôi qua như người ngớ ngẩn.
Trong năm tiếng đồng hồ chờ đợi, mẹ tôi không ăn uống gì cả, bà chỉ biết cầu nguyện rồi phó thác và xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Rồi cũng tới lúc nghe cô y tá dùng máy phóng thanh gọi mẹ tôi lên lầu. Lên lầu vừa trông thấy tôi, nét mặt mẹ liền rạng rỡ, vì mẹ biết là tôi vẫn còn sống, còn ở lại trần gian với bà, mẹ chưa vĩnh viễn mất con đứa con bất hạnh.
Mắt mẹ rưng rưng lệ nhìn vào cổ tôi, sau khi giảu phẩu đã được đặt vào một ống plastic tròn, to bằng 3 ngón tay chụm lại, trong khi tay mẹ vuốt tóc tôi như chia xẻ, như muốn gánh vác bớt cho tôi những đau đớn mà tôi đang chịu. Hiểu lòng mẹ bao la, tôi cố nén mọi đau đớn, ráng gượng nở nụ cười với mẹ cho mẹ an lòng. Nhưng nụ cười đầu tiên của con dành cho mẹ, sau khi hồi sinh vẫn còn ảnh hưởng thuốc mê, nên không trọn vẹn, không đủ xóa hết những lo âu, sợ hãi của mẹ. Tuy vậy, bao nhiêu mệt mỏi của mẹ như đã tan biến, khi cuộc đời mẹ tưởng đã cạn kiệt hy vọng, lại đong đầy niềm vui và ý nghĩa cuộc sống, khi núm ruột của mẹ vẫn còn đây. Mẹ lại được tiếp tục yêu thương, ấp ủ con trong vòng tay ấm áp, ngọt ngào tình mẫu tử. Tôi không thể ôm mẹ được, tủi thân nên nước mắt tôi trào ra, không kìm chế được nữa, dù tôi đã tự hứa không bao giờ để mẹ thấy con khóc mà đau lòng. Mẹ ơi, thế là cuộc đời con từ đây phải sống nhờ vào máy móc, và mẹ phải thêm công việc chăm sóc sệ sinh, thay ống, rửa những linh kiện nối từ máy thở vào ống thở đặt nơi cổ họng chuyền qua vòm họng, thay thế cho buồng phổi của con, giúp con duy trì sự sống.
Phần tôi, rất đau đớn vì một vật lạ, luôn nằm nơi cổ họng, nối vào khí quản. Mỗi cử động dù nhỏ đều làm tôi đau đớn khôn cùng và luôn phải nhờ mẹ giúp đỡ. Thân xác tôi như nằm trên bàn chông chịu cực hình. Tôi quá tuyệt vọng vì nỗi đau thể xác, nên tinh thần bấn loạn. Lần này, tôi thực sự không muốn sống nữa, tôi muốn từ gĩa cõi đời, muốn được giải thoát khỏi cực hình. Dù sao tôi cũng đã có 34 năm sống trong vòng tay êm đềm của mẹ, thế là đã quá đủ rồi xin hãy cho tôi trở về với cát bụi. Tôi bày tỏ cùng mẹ ý định này của tôi.
Nghe vậy, bà vội vàng ôm chầm lấy tôi, nức nở, nghẹn ngào qua làn nước mắt:
-Con bỏ mẹ đi, mẹ biết sống cùng ai, sống cho ai nữa đây! Con đi rồi còn ai để mẹ nâng giấc ủi an! Ai sẽ cho mẹ những giây phút dịu dàng hạnh phúc và hy vọng dù rất hiếm hoi, để cùng nhau đi hết đoạn đường đời cay nghiệt! Triệu ơi! mất con rồi đời mẹ thành vô nghĩa. Lạc lối về mẹ mất cả ánh sao đêm trông mong hy vọng. Con đừng bỏ mẹ bơ vơ trơ trọi giữa đường đời, vốn đã nghiệt ngã với mẹ con ta. Triệu ơi, hãy vì mẹ con can đảm lên mà sống! Mẹ ẵm bồng con, con an ủi mẹ chúng ta đỡ nâng nhau. Con ơi, đừng bỏ mẹ …
Lời mẹ than vãn làm tim tôi đau nhói, thắt ngặt lại và tôi cũng nức nở như chưa bao giờ được khóc trong đời. Tôi phải sống! Cho dù tôi tàn tật; cho dù tôi đau yếu mang bệnh nan y, nhưng sự hiện hữu của tôi mới làm cho nụ cười còn đọng mãi trên đôi môi mẹ.
Sự sống là cao quí. Cuộc đời dù là bất hạnh, cùng khổ đến đâu cũng đều có ý nghĩa sống, sống vị tha và rất cần đức hy sinh cùng lòng hiếu thảo. Mẹ ơi! Hai hàng lệ của mẹ hoà với nước mắt con, tự làm thành tờ giao ước của hai mẹ con ta, phải đồng lòng gắn bó đời nhau cho đến “khi Chúa thương gọi về”. Thân xác dù tàn tật cũng không được tự ý hủy bỏ.
Tôi phải sống vì mẹ như mẹ đã từng sống vì tôi! Tôi hiểu lòng mẹ tan nát mỗi lúc nhìn tôi và lòng tôi cũng nát tan khi thấy mẹ nước mắt mãi lưng tròng!
Có phải tại vì mẹ đẹp người, đẹp nết nên phải chịu cảnh hồng nhan là đa truân?
Có thật định mệnh đố kỵ muốn làm chết đuối "người trên cạn mà chơi"?
Ôi, định mệnh! Định mệnh sao quá trớ trêu! Định mệnh đã dành riêng cho mẹ những bất hạnh truân chuyên. Từ tuổi 30, mẹ đã phải một thân một mình nuôi dạy bốn đứa con thơ dại, vất vả nhất là chăm sóc đứa con tật nguyền, chăm sóc bà nội nay ốm mai đau, thay cha báo hiếu, lo mộ phần an nghỉ cho bà nội, lo kiếm thêm tiền thăm nuôi, tiếp tế lương thực, thuốc men cho cha trong suốt 10 năm tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Mẹ quá vất vả, tảo tần, dãi nắng dầm mưa, bất chấp mọi gian nan, khốn khó, hiểm nguy luôn đe dọa đến tính mạng, vì mẹ phải buôn chui, bán chợ đen, chợ đỏ dưới mắt cú vọ của công an nhân dân, mẹ mới đem lại sự ấm no cho gia đình 6 người, trong hoàn cảnh cả nước ăn bo bo, mì sợi, ngô, khoai thay cơm gạo, sau ngày miền Nam được “giải phóng”, cha được “đi học” mút mùa.
Ôi! Mẹ hiền của tôi, một người mẹ vất cả đời mà không hề than vãn, mẹ âm thầm tận tụy, cống hiến trọn vẹn cuộc đời cho gia đình. Qua mẹ, tôi nhớ đến câu danh ngôn: "Thượng đế không thể ở khắp mọi nơi, nên Ngài phải sinh ra những người mẹ". Và tôi liên tưởng đến Đức Mẹ Maria đã phải chứng kiến những nhục hình tra tấn của quân dữ trước giờ Jesus, con một của Người bị đóng đinh trên thập giá. Còn mẹ tôi, cũng khổ đau không kém gì Mẹ Maria vì mẹ suốt đời phải xót xa nhìn đứa con trai đầu lòng duy nhất của mình, hằng ngày phải chịu khổ hình trong bệnh tật.
Thật không giấy bút nào tả xiết và tôi cũng không đủ khả năng để nói lên được lòng can đảm và sự chịu thương chịu khó, sự kiên trì cùng trái tim đầy ắp yêu thương, nhân hậu của mẹ tôi. Tôi chỉ biết yêu mẹ bằng luỹ thừa tình yêu mẹ mỗi ngày và sống, dù là sống nhờ mẹ và máy móc dây nhợ quanh người.
Có lần tôi những tưởng đã mất mẹ vĩnh viễn, khi bà bị một tai nạn xe hơi rất nặng giữa xa lộ 163, bà bị gãy chân và bể đầu bất tỉnh. Tưởng mẹ tôi đã chết trong xe, người gây ra thảm trạng cho mẹ tôi đã bỏ chạy trốn mất. Ấy thế mà, sau bảy tiếng đồng hồ phẩu thuật, vừa hồi tỉnh, điều mẹ tôi quan tâm đầu tiên là hỏi:
-Triệu đâu? Con tôi vẫn bình yên chứ?
Sau tai nạn đó mẹ tôi lại mang thêm trong chân những chiếc đinh vít inox, mà những lúc trái gió trở trời thường làm mẹ tôi nhức nhối khổ sở lắm. Những lúc ấy, tôi thương mẹ biết chừng nào.
Mẹ Hoàng Minh Đức ơi, chúng con yêu thương và kính trọng mẹ vô ngần, vì trong bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ cũng luôn dậy bảo, nhắc nhở anh em chúng con phải biết vâng lời, sống ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành, luôn thật thà, khiêm cung, không hiềm tỵ ganh ghét bất cứ ai. Nhờ có mẹ răn dậy cẩn thận như thế nên anh em chúng con, chưa hề biết gian dối hay ganh ghét ai bao giờ.
Mẹ chính thật có trái tim vĩ đại dành của chúng con (và cha nữa). Nhưng cha đã từ chối nhận, đã rũ bỏ mẹ và 4 anh em chúng con ngay sau khi đến được nước Mỹ, trong khi mẹ luôn nghĩ sẽ cùng cha sống đến gìa, yêu đến gìa ...
Thử hỏi có người nào không âu sầu, khi biết đứa con trai duy nhất, bị mắc căn bệnh nan y, không thể nối dõi tông đường. Mẹ cũng vậy, mẹ rất đau buồn và còn phải nhận thêm cay đắng khi “thuyền tình đã neo bến mới”. Dù đau buồn cay đắng, mẹ vẫn không hề biểu lộ sự giận dữ vì lòng mẹ rất nhân hậu, bao dung. Mẹ đã nói:
-Cha khổ nhiều vì CS rồi, đừng ép buộc cha thêm khổ sinh ra uất ức, la hét, chưởi rủa khi phải ở lại với chúng ta. Hãy để cha quyết định theo cách tốt nhất mà cha chọn. Nếu từ bỏ mẹ con mình mà cha hạnh phúc, thì hãy chấp nhận.
Tôi biết, mẹ nói vậy là để trấn an anh em chúng tôi và để che dấu cõi lòng tan nát, an phận chấp nhận quyết định của cha. Cách đây không lâu, mẹ nhờ cô bạn mở cho một địa chỉ e-mail, khi được hỏi mẹ chọn “password” là những chữ gì, mẹ đã nói ngay câu “đả đảo ông chồng” rồi mẹ và cô bạn cùng cười vang. Tôi cũng chua xót cười theo và thương mẹ hiền lành chỉ biết hô “đả đảo” khi cha tuyệt tình!
Cha ơi, hai mươi năm đã trôi qua, cha sống có hạnh phúc không, cha có toại nguyện với các em trai khôi ngô, khỏe mạnh “nối dõi tông đường”, cha có cõng các em trên lưng cha, như mẹ đã cõng con nhiều năm tháng trên lưng mẹ. Lưng mẹ êm đềm và ấm áp lắm, không biết lưng cha thế nào, con chưa một lần được cha cõng trên lưng, được vòng tay ôm cổ cha âu yếm, đấy là điều con mãi nuối tiếc. Và bây giờ thì con không còn có thể vòng tay ôm cổ cha được nữa, nếu như cha có về và muốn cõng con, khi hai cánh tay con thịt đã teo biến hết, chỉ còn da bọc lấy xương, lõng thõng và vướng víu khi mẹ tắm rửa, thay quần áo cho con. Khi con xử dụng computer, mẹ phải nhấc cánh tay khẳng khiu của con đặt lên bàn, cầm mấy ngón tay con đặt trên con chuột (mouse) kéo từng ngón vào vị trí chính xác thuận tiện nhất, để con có thể bấm xử dụng được dễ dàng. Tuy vậy, chốc chốc con lại gọi mẹ ơi, mẹ hỡi để mẹ chạy đến giúp, vì đẩy tới đẩy lui, con “mouse” đã chuồi ra khỏi tay con rồi, mà con không thể tự nắm bắt nó lại được.
Cha ơi, con chợt nhớ đến cha mà viết những dòng chữ này, nếu cha có tình cờ đọc được, xin hiểu lòng con, đứa con trai tàn tật thân xác từ thuở ấu thơ, luôn khao khát tình cha. Bởi vì tình mẹ dù có bao la, cũng không thể phủ trùm thay thế tình cha cho con. Con đã có “Ánh Sao Tình Mẹ”, con cũng muốn có những nốt nhạc cho tình phụ tử, là thật lòng con đấy!
Và hơn tất cả con luôn cảm tạ hồng ân Thiên Chúa, đã ban cho con đủ sức chịu đựng và "xin vâng" đón nhận mọi khổ đau và cho con còn sống đến hôm nay.
Con xin tri ân nước Mỹ. Vinh danh mẹ. Tạ ơn cha. Cám ơn các em gái Trinh - Trâm - Bình và các cháu đã chăm ngoan, học giỏi thay anh, thay bác Triệu bù đắp, đóng góp tài sức cho gia đình, cho xã hội. Cám ơn các em rể thủy chung, mạnh mẽ, thẳng ngay như tùng như bách làm cột trụ vững chắc cho gia đình được tràn đầy hạnh phúc, luôn vang tiếng cười.
Con cũng nguyện xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho tất cả mọi người đã đối đãi tử tế với gia đình con, cách riêng là an ủi, giúp đỡ mẹ và con trong hoạn nạn. Đặc biệt cám ơn anh chị Cao Ngô An đã không quản ngại vất vả làm tài xế đưa mẹ đi chợ, giúp mẹ nấu nướng, đưa em đi khám bệnh, đi những nơi cần thiết, từ khi mẹ bị tai nạn xe hơi trên xa lộ, không lái xe được nữa. Em ơn anh nhiều lắm.
San Diego 3/3/11.
MINH TRIỆU
(http://www.vietbao.com/D_1-2_2-271_4-171825_15-2/)

Friday, October 29, 2010

nuôi chó

Lại một truyện mình đọc trên đường. Tâm sự có lẽ sẽ không là nhiều lúc bình thường nhưng trên bước đường xa nhà, dù là ngắn, cảm được cái hồn của người viết. Nhớ cảnh ba mẹ bên hiên nhà đầy hoa cúc, nhớ những đứa con xa/tâm tư của những đứa con xa về hiên nhà đầy hoa cúc và những trăn trở của hai đấng sinh thành :
Con về thăm nhà, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của một sinh vật bé nhỏ. Con chó trắng đốm đen chạy lon ton từ sau hè ra trước cửa, sủa một tràng inh ỏi. Ui da, “con quỉ” này ở đâu ra vậy ba mẹ? À, con chó của dì cho đó con. Nhưng nhà mình trước giờ đâu có nuôi chó, với lại con sợ nó cắn lắm. Không sao đâu, nó hiền khô hà. Ba mẹ nuôi cho vui cửa vui nhà ấy mà.
Con thấy mẹ có vẻ ngượng ngùng. Chắc mẹ nhớ tới cái câu nói mỉa của con ngày nào dành cho thằng nhóc hàng xóm sang khoe con xù Nhật: “Con người đây còn chưa yêu thương hết, đi yêu thương con chó!”.
Ba mẹ nuôi Mina (ái chà, cái tên đúng kiểu quá!), chuyện thật ra cũng đâu có gì to tát. Nhưng nghe mẹ nói “nuôi cho vui cửa vui nhà” con mới giật mình. Chuyện đơn giản vậy mà bấy lâu nay con đâu có nghĩ tới. Con đi học xa, căn nhà vốn đã rộng giờ lại càng thênh thang, có phần quạnh vắng nữa. Nghĩ tối ngày hai ông bà già đi ra, đi vô chăm sóc đám cây kiểng rồi ngồi ôn chuyện cũ, như con chắc con chịu không nổi quá.
Buồn thê thảm! Nhưng biết làm sao được, có thằng con trai duy nhất mà, phải để nó đi học thành tài chứ. Nhưng hỡi ôi, thằng con trai này chưa thành tài thành danh mà đã vô tâm quá! Nó đâu biết từ ngày nó đi học ở Sài Gòn, mọi chuyện trong nhà đã đơn giản đi nhiều lắm. Bữa cơm gia đình hằng ngày không còn ồn ã như lúc còn có nó ở nhà. Nó đâu biết ba mẹ nó như quay về cái thuở hàn vi.
Một nồi cơm nhỏ, một đĩa rau luộc, một chén cá kho tiêu, vậy là xong bữa. Già rồi, nấu nướng cầu kỳ chi cho phức tạp con, ba mẹ ăn có bao nhiêu, có bữa còn muốn ăn cơm bụi cho tiện. Với lại lúc này mẹ thấy chân hơi yếu. Trời, thằng con đi học xa nhà đó không biết nhớ được bao chữ nghĩa mà chuyện hỏi thăm đôi chân của mẹ nó cũng quên! Con tệ thiệt phải không ba mẹ?
Con đâu chỉ không hay đôi chân mẹ đã yếu hơn xưa nhiều lắm, mà con cũng nào để ý tuổi già ba mẹ đang tới. Con nào để ý lâu rồi con không bắc ghế ra sau hè ngồi nhổ tóc sâu cho ba, lâu rồi ba không còn cùng bạn bè đi thăm những cánh đồng có giống lúa mới nữa, lâu rồi ba không còn la lớn như trai tráng khi xem một pha bóng hay nữa. Con nào để ý đuôi mắt mẹ, đôi mắt hai mí mà con thừa hưởng nè, đã đầy những nếp nhăn rồi.
Con nào hay từ lâu mẹ đã không còn đi công tác dưới mấy huyện nữa. Cô cán bộ nông nghiệp được bà con yêu quí ngày nào giờ đâu còn tung hoành ngang dọc như xưa nữa. Con lại càng không biết chuyện mẹ chán, mẹ bức bối khi bị bó chân trong căn phòng máy lạnh rì rì của sở lắm rồi. Biết làm sao hả con, mẹ già rồi, ai người ta cho đi.
Con biết, tới giờ thì cái này con phải biết chứ mẹ. Con biết làm sao mà mẹ quên được những cơn gió mát thổi tung tóc mẹ giữa đồng. Mùi dầu thơm xịt phòng nức mũi này sao mà thay được cái mùi đất, mùi cỏ, mùi rơm rạ mà mẹ vẫn từng yêu như yêu chính da thịt mình. Làm sao mà quên được hả mẹ? Chân mẹ yếu, cơ quan không cho mẹ đi cơ sở nữa chỉ là cái cớ.
Thật sự những ngày cuối tuần mẹ vẫn kêu ba chở đi thăm những cánh đồng lộng gió, bước chân mẹ vẫn như bay trên những vạt cỏ non bờ đê còn đọng sương sớm phải không mẹ? Con biết mẹ vẫn vừa đi, vừa nâng niu những bông lúa ngậm sữa, vừa với tay hái ít ngọn nhãn lồng, ít ngọn rau chay để lát về ba mẹ luộc lên chấm mắm kho. Bữa cơm thị thành nhà mình ngày trước vẫn thơm mùi đồng đất nhờ đĩa rau luộc đó.
Về thăm nhà, có con Mina vậy mà hay, vậy mà vỡ ra nhiều lẽ. Nhưng hình như cái lẽ nào cũng làm con cảm thấy tội lỗi hết. Con nhớ hồi đó, những lần đến nhà bác Đức, giám đốc sở của mẹ. Chu choa, cái nhà toàn chó là chó. Những con chó lông xù được túm lông, thắt nơ, kẹp màu… trông cứ như một lũ đỏm dáng. Những con phóc sạch sẽ nhảy lung tung lên người con làm con la oai oái…
Bác Đức không có con nên nhà mới cố làm cho inh ỏi lên như thế. Nhìn hai bác nâng niu lũ chó, cưng chúng như con, gọi chúng bằng những cái tên mỹ miều, trông hài hước mà sao bi kịch quá! Cứ sau mỗi lần đến thăm bác, ba mẹ và con kể lại chuyện gặp bọn chó đó mà cười quá trời. Dẫu thông cảm cảnh đơn chiếc của vợ chồng bác Đức, nhưng sao vẫn thấy hai bác… rảnh thiệt. Vậy mà giờ đây gia đình mình có thêm một thành viên mới cũng vì lý do tương tự – nhà quạnh vắng quá.
Con phải công nhận nhà có con chó thấy “sinh động” hẳn lên. Nhất là khi con về lại càng ồn ào dữ. Con vốn sợ chó, vậy mà cái con Mina này không thèm nể nang “cậu chủ” gì hết. Nó cứ chạy theo táp táp vào chân con làm con phải nhảy lên bộ ván, chửi rủa ỏm tỏi. Chắc con Mina nghĩ con về giành hết sự yêu thương của ba mẹ.
Như mẹ kể đó. Hôm trước, lúc nó đòi ăn, mẹ la: sủa dữ vô đi con, rồi vài bữa nữa thằng Nhí về, tao cho mày chết xó. Mẹ kể chuyện cười, ừ thì con cười, nhưng mắt thằng con trai 20 tuổi cay xè muốn khóc. Con chó chạy theo con đòi cắn, nó không hưởng ứng con trong nhà này, nó ghen tị đó mà. Chó còn biết ghen tị huống hồ là con. Con cũng biết ghen tị mà, con cũng muốn đá văng con chó khi hồi chiều thấy nó quanh quẩn bên ba, nhe răng gí vào đôi cánh tay rắn chắc nhưng đen sạm, đượm mùi bùn khô ban sáng ba đi thăm ruộng.
Ba nằm trên võng, vung tay đẩy Mina ra, giọng trách móc mà dịu dàng: thôi con, đi chỗ khác chơi đi. Nghe ba nói mà tuổi thơ con như tràn về trách cứ, con muốn đạp văng con Mina ra hết sức. Chỗ đó là chỗ của con mà. Chỗ hồi con bảy, tám tuổi đeo theo ba, khóc nhè đòi cùng ba đi ruộng dù ngoài trời mưa như trút nước.
Hồi đó, chú Nam trong xóm đi ngoài bờ sông trời mưa bị sét đánh, nghe mấy bà trong xóm nói cái xác chú Nam đen sì, thấy thằng Bê con chú Nam khóc quá trời. Con sợ, con không muốn ba bỏ con trong tiếng trời gầm ghê rợn. Con níu tay ba, trượt theo chân ba, con vừa khóc vừa gí hàm răng non nớt vào lưng ba cắn lấy cắn để tấm lưng dài rộng và khét nắng. Chắc là đau phải không ba? Hàm răng sún thời ấy lưa thưa nhưng nhọn hoắt.
Vậy mà ba nhìn con dịu dàng: Nhí qua nhà bé Chi chơi đi, ba đi tí rồi về mà, không thôi nước tràn đê bây giờ. Con vẫn cứ khóc, mắt nhòe đi cùng màn mưa mù mịt, nhưng con còn kịp nhìn và mãi nhớ hoài ánh mắt ba lúc ấy, ánh mắt như có cái gì đó rọi thẳng vào con, hiền hậu, yêu thương và long lanh sưởi ấm….
Nếu so sánh một cách hài hước thì con hồi nhỏ giống hệt con Mina bây giờ, nghịch ngợm, tíu tít và quanh quẩn bên ba mẹ. Còn nếu gọi là nhân hóa thì Mina phải giống con, xinh xắn, ngây ngô và nhiều lúc vô tình không hay, không biết để rồi phải tiếc nuối.
Nhớ bữa cơm hồi trưa, trong lúc con và ba vừa ăn trái cây vừa trò chuyện (ui cha, đã qua cái thời con mè nheo lâu lắm rồi, đã đến cái thời con và ba nói chuyện như những người đàn ông với nhau, đến cái thời con biết thế nào là một người bạn lớn trong đời rồi!), con nghe mẹ nói (chắc chắn là với Mina): ăn lẹ đi con, làm gì nhơi nhơi hoài vậy! Một khoảnh khắc câm lặng như vừa dừng lại đâu đây.
Con nhìn ra sau hè, Mina đang giương mắt nhìn mẹ, đôi mắt trong veo, đôi mắt đen hồn nhiên như không biết mình có lỗi. Con cũng đang giương đôi mắt đó nhìn ba mẹ đây. Dẫu không còn trong veo được như ngày xưa ấy nhưng con vẫn cố, con đang cố, dù biết không thành…
Căn nhà tuổi thơ con đang bóp trái tim con nức nở. Căn nhà tuổi thơ với những bữa cơm đạm bạc. Con cầm cái muỗng xúc xúc vào tô cơm trắng to ứ hự. Xúc xúc thôi chứ không ăn vì miệng còn đang ngậm đầy cơm. Bữa cơm đạm bạc không có thịt, chỉ có vài con cá lòng tong kho tiêu, một tô canh chuối ngọt lừ.
Con nhớ mẹ cũng nói với con: ráng ăn cho lẹ đi con, bữa sau mẹ mua thịt cho ăn. Lúc đó con trách mẹ vì đã ba bữa rồi nhà mình chỉ ăn có mấy món như nhau. Nhưng con đâu biết hai tuần nay nước lũ dâng cao, đâu còn món gì ngoài món cá lòng tong này, mẹ đi làm đã cực khổ còn phải đi chợ lo cho con no bữa. Con đâu biết, con nào biết.
Con chỉ nhớ mẹ nói câu ráng ăn đi con mà giọng mẹ như muốn khóc. Con sợ mẹ khóc lắm nên cũng ráng nuốt cho xong… Rồi nhà mình cũng khá giả hơn, nhưng con vẫn giữ cái thói ăn nhơi nhơi như vậy. Kiểu như ngậm một hồi cơm mềm ra thì dễ nuốt hơn hay sao ấy. Và mẹ vẫn cứ cái câu: ăn lẹ đi con, ăn cơm mà ngậm hoài là mai mốt nghèo lắm đó. Nhưng giọng mẹ trầm ấm, dịu dàng và yêu thương…
Giờ con về, ăn cơm nhanh nhất nhà, tại cái thói ăn như voi của bọn nam sinh viên “ghiền” cơm bụi, nhưng con ăn cho lẹ là để còn bô bô đủ thứ chuyện trên Sài Gòn. Ba mẹ ăn thật chậm, chắc không phải do răng yếu, mà dường như trong từng cái và miếng cơm trắng, miếng thịt ngon ấy, có cả những lời con trai theo vào để ba mẹ từ từ nhấm nháp, để tuổi già nhìn con, mắt hiền yêu dấu.
Nhà có con Mina, vỡ ra nhiều lẽ. Vỡ ra những kỷ niệm của tuổi thơ chợt tràn về lấp kín tâm hồn con, khiến con thổn thức nhưng cũng khiến con yêu thương biết bao những ký ức hồn nhiên ấy. Để rồi trách cái tuổi 20, tự cho mình chững chạc, tự cho mình người lớn nhưng lại quên những điều cần nhớ.
Có con Mina, tuổi thơ con như đang được chiếu lại trong một khúc phim đầy tình người, đầy hồn nhiên thơ dại. Khúc phim có cảnh ba nói với con Mina: dậy đi, sáng rồi mà còn nằm ườn ra hả con. Nhưng hình như là ba đang nói trong tuổi thơ của con: sáng rồi, nướng hoài cháy khét bây giờ đó con. Tiếng mẹ cạnh bên nuông chiều: chán thiệt, bữa nào cũng gọi Nhí như gọi đò vậy. Tiếng tuổi 20 con gọi tuổi lên 10: đừng dậy, cứ hãy nuốt những lời này vào đầy tâm trí cái đã!
Khúc phim có cảnh ba mẹ và con xúm lại tắm cho Mina, nước ấm hẳn hoi nhưng nó vẫn la ỏm tỏi, ba phải luôn miệng: tắm cho sạch sẽ rồi phơi nắng, không thôi bọ chét bám đầy. Giống hệt hồi xưa ba dỗ dành con, tắm rửa sạch sẽ rồi ba cho đi công viên.
Con ghen tị khi nhà có con Mina. Ban đầu là ghen tị với “con quỉ” đó, nhưng rồi dần dần con lại ghen tị với chính mình, con ghen tị với tuổi thơ được nằm trong vòng tay ba mẹ, được cắn vào lưng ba khét nắng, được nghe mẹ trách móc yêu thương. Con ghen tị với chính tuổi thơ mình để rồi tự hối lỗi, tự trách chính cánh chim khỏe tung trời này bay đi khỏi tổ, chứ tổ rơm ấm nồng thì vẫn lặng im chốn ấy, chờ một ngày chim bay về để lại được ủ ấm, lại được chở che, lại được sống trong cái mùi nồng nàn của rơm rạ, mùi bình yên.
+ + +
Bây giờ thằng con trai đi học xa nhà mỗi lần điện thoại về nhà bao giờ cũng hỏi mẹ: con Mina sao rồi mẹ? Mina hình như nghe được, nó sủa một tràng ỏm tỏi. Đây nè, nó sủa mong con về nè! Dạ, để con thu xếp rồi tranh thủ cuối tuần này về, mà con cũng không chắc nữa. Đó, nghe chưa, sủa cho dữ vô, quậy cho dữ vô, rồi vài bữa nữa thằng Nhí về là tao cho mày chết xó!
Nguyễn Hãn Hữu

Tuesday, October 26, 2010

tiên ngồi khóc

Đọc vài truyện ngắn trên chuyến bay về lại phố, chuyện này làm mình khóc cười hai bận. Cấu trúc tưởng quen nhưng lạ. Phải khắc khoải của tâm trạng người đang lớn với khá nhiều niềm riêng chưa bộc bạch?
TTCN - Ba đứa không có số ký danh lẽo đẽo theo tôi tự tìm chỗ ngồi. Thằng Sơn cắm cúi làm bài. “Chuyên gia phao” Phong loay hoay phù phép. Hắn lôi trong người cuộn tài liệu môn văn thu nhỏ nhưng giám thị không thấy.
Thiệt nhà nông với những móng tay cáu bẩn đọc bên tai tôi câu giáo khoa nhưng tôi không chép. Tôi nộp bài. Cô giám thị nhìn đôi mắt đỏ hoe và đoạn bài hoen ố nước mắt của tôi đưa cho tôi tờ giấy: “Chép lại đi! Còn giờ”.
Tôi thầm cám ơn cô vì cô không hỏi tại sao em khóc. Tôi về chỗ nhưng không chép lại, nhả đầy trang giấy cô đưa mẩu tin đóng đinh trong hồn tôi: Cứu bạn, ba học sinh lớp 12 chết đuối... Bốn chứ. Kể cả đứa chết cạn. Còn hơn cả chết bởi không vết thương nào âm ỉ đớn đau hơn sự hối hận!
Tôi đã đọc đâu đó câu: Con người là một sinh vật có thể đẩy đồng loại của mình vào chỗ chết trong bất cứ tình huống nào.
Tôi không rớt tốt nghiệp nhưng ngày thi đại học tôi đi lang thang. Đầu óc tôi là một mớ bòng bong, thi cũng rớt. Tôi cũng không thể ngồi trong giảng đường khi ba đứa giỏi hơn tôi vì tôi mà học với giun dế! Mẹ cố lôi tôi về với cái thời trước cơn mưa với nhiều món cám dỗ: xế mới, những bộ đồ hiệu đắt tiền...
Nhưng mẹ không biết rằng sau cơn mưa tôi không còn là con bé Sim ham chơi nữa. Tôi đã là một bà già có số tuổi bốn lần 18! Con Thạch Thảo triết lý: “Sống chết có số. Tụi nó không chết vì cái kính cận của mi rơi xuống hồ hôm đó thì cũng bị xe tông chết ngày hôm sau. Mi tự dày vò cũng không làm chúng sống lại”; “Nếu tao không xuống hồ rửa chân...”; “Thế thì tại cái chương trình học đằng đẵng 12 năm chẳng có môn dạy bơi phòng khi học trò xuống nước. Tại...”; “Thôi!”- tôi hét.
Vườn nội mênh mông trống vắng. Những đứa con lớn từ đó, ra đi... Mùi ổi chín, mít chín chỉ gọi chim về. Tôi thường kể cho chúng bạn nghe về khu vườn ấy và hẹn thi xong sẽ kéo về làm khỉ. Thế mà!
Tôi gọi điện về nhà. Giọng mẹ đẫm nước mắt. Còn ba bình tĩnh dặn dò. Cả nhà xao xác hoảng loạn khi tôi bỏ thi không về, giờ yên lòng vì tôi ở bên nội.
Tôi đi thi. Dáng xiêu đổ. Mắt sâu hoắm. Tôi không chỉ sống cho đời mình mà còn ba cuộc đời nữa vì tôi mà đứt đoạn ở tuổi 18. Chúng bắt tôi ngồi dậy, bắt tôi đi.
* * *
Ngày định mệnh nắng vàng như mật. Tôi dừng xe trước nhà Thạch Thảo với một bịch đồ ăn:
- Rủ nhóm mình lên thung lũng Tình Yêu học sử. Ở nhà học không vô.
- Nhưng thằng Thiệt bận làm rẫy.
- Tao rủ là hắn đi!- Tôi nghếch mặt nhớ 18 đóa hồng ngậm sương trên thềm nhà vào sớm tinh mơ sinh nhật thứ 18.
Khi tôi và Thạch Thảo đến, Thiệt nhà nông đang quần xà lỏn bón phân. Hắn bẽn lẽn chạy vào thay quần dài. Mãi mãi hắn bỏ vồng cải dở dang cho mẹ hắn...
Học không bao nhiêu nhưng ăn và cười thì nhiều lắm. Cười cho đến khi cơn mưa đột ngột trút xuống thung lũng. Chúng tôi ở trong rừng thông không nơi trú ngụ. May mà Thiệt nhà nông lo xa. Hắn lôi trong túi xách áo mưa và ô. Bảy năm học chung, thế mà cái giờ duy nhất chúng tôi đứng sát bên nhau dưới cái ô, trong cơn mưa xối xả ấy, hắn ôn cho tôi năm câu sử!
* * *
Tôi ghé vào quán Dã Quỳ, nơi ba tháng trước thằng Sơn chiêu đãi nhóm trong lần sinh nhật 18. Làm sao nó biết đó là sinh nhật cuối cùng! Hôm ấy lần đầu tiên tôi uống cà phê, tim đập thình thịch vì thứ nước đen sánh, thơm lừng. Lần đầu tiên thằng Phong hút thuốc, sặc sụa vì khói. Lần đầu tiên. Lần cuối cùng. Lúc nào cũng có thể vậy.
Quán vắng. Chúng ngồi quanh tôi. Gương mặt thông minh búng ra sữa của thằng Sơn phình to, đôi tay chai sần lam lũ của thằng Thiệt bợt bạt, mái tóc model của thằng Phong lềnh bềnh. Tôi đẩy ly cà phê chảy tong tong như máu ứa từ nỗi buồn đen thẫm chạy ra khỏi quán.
Con tàu sầm sập tiến vào sân ga nhưng tôi không đủ can đảm về với tụi nó. Tôi mua vé đi miền Trung. Ngực tôi đang đè nặng bởi những giọt lệ không trào và tôi muốn về òa ra trong vườn nội.
* * *
Ăn xong, nội nhai trầu đưa võng ru tôi như ngày tôi còn bé. Tôi quên cả khóc, ngủ đẫy giấc trong cái mùi khó tả đẫm hương quê. Khi mở mắt, tôi chạm phải ánh nhìn của một con bé gầy nhom như mèo đói ngồi trên cành vú sữa chìa qua vườn nội.
- Té chết! Qua đây!
Con bé nhìn tôi như ngạc nhiên về lời mời. Còn tôi ngạc nhiên nhìn bức tường chắn mới mọc. Tôi nhảy xuống võng trèo lên cây khế. Vườn ngăn ranh giới nhưng cây hai vườn vẫn kết nhau. Lá cành chạm nhau, rầm rì tỉ tê trong gió.
- Bé tên chi?
- Tội.
- Tên chi?
- Tội - nó lặp lại.
- Tên chi tội nghiệp rứa? - tôi phá lên cười.
Có tiếng chân nội. Con Tội lật đật trụt xuống. Lập tức nó biến mất sau bức tường.
- Khế ơi! - Khế là tên nội đặt cho tôi hồi còn bé bởi tôi rất thích ăn khế ngọt.
- Khế trên cành nội ơi!
- Con gái mà trèo cây như khỉ. Vô ăn khoai!
Tôi bê rá khoai bốc khói ra võng. Đang ăn, tôi chợt thấy ba đứa chìa tay. Những bàn tay bợt bạt, nhăn nhúm. Tôi thả rơi khoai, tối sầm lòng. Rồi cơn mưa nước mắt vỡ òa trong nắng.
- Lớn rồi mà khóc!
- Lớn mới có chuyện khóc! Trèo cây hoài thế?
- Cây Vú Mẹ chơi với em - nó khoe.
- Sao không chơi với bạn?
- Ngoại chưa xin bạn được.
- Xin bạn? - tôi phì cười.
Một bầy con nít con chú, con bác, con cô ào vào vườn vây quanh tôi. Chúng dắt tôi về thời thơ ấu với trò chơi trốn tìm. Đang trốn, tôi bắt gặp ánh nhìn nặng trĩu khát khao của con Tội trong vòm lá.
- Cho nó chơi với - tôi chui khỏi chỗ nấp.
- Cho ai?
Tôi chỉ lên cây.
- A! Con Xiđa. Xiđa là xa đi, xáp gần tao đánh chết!- một đứa bảo rồi nhặt hòn đá ném lên cây vú sữa.
Những đứa khác bắt chước. Tôi la lên nhưng chúng vẫn ném. Con Tội lật đật tụt xuống. Nghe như trái mít rụng.
Tôi trèo lên cây nhìn xuống. Con Tội ôm cẳng nhăn nhó dưới đất.
- Sao chúng mày ác thế?
- Trước sau chi hắn cũng chết! - con Thúy tỉnh bơ đáp. Nó còn dặn tôi:
- Đừng chơi với hắn lây xiđa chừ!
Tụi nhỏ về, con Tội lại trèo lên cây vú sữa nhìn tôi đau đáu. Tôi nhìn lại, vừa thương vừa sợ.
- Sợ gì? Tao có bị xiđa đâu mà tao cũng chết! - thằng Sơn hất mái tóc bám rong rêu nhìn tôi.
* * *
Nội xách giỏ đi chợ, tôi đi theo. Chợ quê thơm mùi rơm rạ. Gì cũng tươi mới, ít ỏi. Bầu bí mới cắt. Mớ tôm cá mới rớ. Chục trứng tươi hồng nằm khoanh trong rơm... Tôi thấy bà Tám cuối chợ. Rổ khế đầy nằm tư lự bên cạnh.
- Khế! - tôi kéo áo nội nhưng nội ngó lơ.
- Ăn đồ mụ nớ lây xiđa!
- Rứa mụ nớ bán cho ai?
- Thường phải chợ làng bên. Hôm ni răng rứa không biết...
- Mua hoa quả mắc chi mà...
- Con rể, con gái bị xiđa chết hết. Mụ đem đứa cháu mồ côi về nuôi. Hắn cũng bị xiđa rứa mà mụ còn cố xin cho hắn đi học. Hắn vô lớp mô, phụ huynh lớp đó rùng rùng tới lôi con về. Rứa là hết học.
Hình ảnh mụ Tám ngồi ở góc chợ với rổ khế ế buồn thiu theo tôi trên đường làng yên ả. Nội dắt tôi đi vòng để khỏi ngang qua nhà con Tội.
- Nếu cháu bị xiđa nội cũng rứa hả?
- Cái miệng ăn mắm! Bởi rứa... tau mới xây bức tường để xiđa khỏi bay qua.
- Xiđa không bay, chỉ lây qua đường máu và khi... quan hệ... Cháu học cháu biết. Nội cho con Tội qua chơi đi nội! - tôi nài nỉ.
- Không!
- Mai cháu về - tôi dỗi.
Sợ tôi về, nội cho chúng tôi chơi cách tường. Con Tội mừng lắm. Nó tọt lên cây Vú Mẹ. Tôi leo lên cây khế, còn nội không an lòng đứng dưới đất canh. Tôi giục:
- Nội đi chợ đi!
Nội xách giỏ đi còn ngoái dặn:
- Nhớ đừng quan hệ nghe!
Tôi cười suýt té. Ba đứa trên cây cũng ngoác miệng cười. Làm sao tôi cắt nghĩa cho nội hiểu cái chữ chết tiệt ấy. Con Tội không biết chi cũng góp cười. Chỉ có bà Tám đứng dưới đất là góp khóc. Bà chắp tay lạy tôi khi tôi chơi với đứa cháu côi cút, bất hạnh của bà.
* * *
Lên tám nhưng sống cô lập con Tội không biết chữ cũng không biết gì về thế giới rộng lớn quanh nó.
Thấy con Tội khao khát học, tôi nảy ý định dạy nó. Có dịp là tôi tót lên cây khế qua vườn con Tội. Ở đó đứa học trò đầu đời bé nhỏ của tôi háo hức nuốt lia lịa những con chữ viết bằng cành cây trên mặt đất vào bụng.
Nó thuộc nhanh bảng chữ cái làm tôi kinh ngạc. Mẹ rất mừng khi qua điện thoại biết tôi không còn câm lặng hay khóc. Tôi bảo mẹ gửi cấp tốc cho tôi bộ sách lớp 1, truyện tranh, truyện cổ... để tôi làm cô giáo.
- Khi nào con về?
- Con ở với nội hết mùa hè.
Khác với thân xác nhỏ bé chứa đầy mầm chết, tâm hồn con Tội là một tờ giấy trắng tinh khôi. Tôi thận trọng in lên đó những sắc màu tươi đẹp của cuộc sống. Khi phải bay ra khỏi cuộc đời này, thiên thần nhỏ bé ấy sẽ chở trên đôi cánh những gì tốt đẹp của trần gian.
Tôi thường kể chuyện cổ tích cho nó nghe. Nỗi khắc khoải mơ hồ về thân phận mình khiến con bé luôn đặt câu hỏi.
- Đời chừ có tiên không?
- Có.
- Tiên cứu giúp ai?
- Những kẻ tốt bụng, khốn cùng.
- Răng tiên không cứu em? Ai cũng bảo em sắp chết. Chết là đi mãi không về mà em thì muốn về kẻo ngoại buồn.
Khi tôi đọc chuyện Cái bình nứt con Tội cũng thắc mắc:
- Có người nứt không?
- Người nứt là người không hoàn hảo, bị khiếm khuyết.
- Thế em là người nứt - nó ngẫm nghĩ rồi tuyên bố.
* * *
Mùa hè ấy qua nhanh. Con Tội biết đọc, biết viết. Còn tôi, vết thương buồn kín miệng. Nỗi đau ở tuổi 18 lấy của tôi sự hồn nhiên và biến tôi thành một con người khác. Tôi thắng con quỉ buồn rầu đeo bám, quyết định học lại thi vào trường y để có cơ hội chuộc lỗi.
Con Tội rất thích tôi làm bác sĩ. Nó tin tôi sẽ chữa lành bệnh cho nó đi học. Nó giăng ước mơ khắp cành Vú Mẹ, vẽ lên cả trời xanh. Tôi chưa thấy đứa bé nào nhạy cảm và thông minh như con bé ấy. Dường như khi giam mình trong bệnh hoạn, cô đơn, tâm hồn nó lớn thay cho thể xác.
Đêm cuối cùng ở quê, tôi không ngủ được. Vườn nội ngời ngợi trăng. Chỉ có trăng quê mới hào phóng lai láng thế. Ba bạn tôi đứng ở sân, múc từng gáo trăng dội lên nhau cười khanh khách. Lần đầu tiên tôi thấy chúng không hiện lên với bộ mặt đau khổ, oán hờn.
Cây Vú Mẹ lá cành rung động. Tôi nghe tiếng đập muỗi lép bép. Thì ra con Tội đang ngồi trong bóng tối nhìn qua. Nó biết ngày mai tôi đi...
* * *
Tôi thi đỗ vào trường y nhưng quên phắt con Tội.
Khi tôi về thăm nội, con bé láng giềng tội nghiệp đã đi xa. Bà Tám lập cập trao cho tôi tờ giấy nhàu nhò bò lổm ngổm một hàng chữ to đùng sai chính tả: em gặp tiêng rồi tiêng đeo gươn trèo cây như khỉ tiêng trèo lên cây khế ngồi khóc.
Trên cành Vú Mẹ, bốn đứa hái hoa nắng ném nhau. Năm chứ! Cả con Sim 18 hồn nhiên, lắm tội. Chúng chơi trong im lặng. Không tiếng. Không hình. Không màu. Nhưng tôi vẫn thấy bởi chúng trong lòng tôi đi ra...
Quế Hương.

Thursday, September 2, 2010

thư gởi... (st)

Đào chúa đảo Tuần Châu nhã giám.

Giang hồ phong tặng đại gia là’ Đảo chúa” nên tại hạ xin dùng văn phong kiếm hiệp thưa chuyện cho phải phép giang hồ

Đào đảo chúa.

Giang hồ hắc bạch đều biết đảo chúa là người ngân lượng vô bờ,lại là bậc phong lưu ngưỡng mộ nhan sắc cũng vào bậc nhất.Tuần Châu đảo là nơi dành cho mỹ nhân thiên hạ quần tụ khoe tài.Nơi én nhạn,hải âu, bồ nông,bói cá cũng sa sóng biển.Nơi cá heo,cá mú cũng phải lặn sâu tận đáy vịnh kỳ quan. Ngân lượng của đáo chúa nhiều như sao trên trời,cát trên bãi.Thật khó có người so sánh được.Đảo chúa có tất cả trong túi trừ một thứ : danh thơm đích thực.

Tại hạ cùng giang hồ được biết khi Bảo Châu kỳ nhân xuất xuất hiện như sao chổi chói lọi trên bầu trời Đại Việt.Ngay lập tức Đảo chúa bắn tin kính tặng ngay một lâu đài lộng lẫy trên Tuần Châu đảo .Và khi Bảo Châu kỳ nhân hồi âm từ chối vì lòng tự trọng của một kỳ nhân,ngỡ tưởng đảo chúa đã yên lòng trở về ngự trên ghế đảo chúa để chuyên tâm lo toan chuyện ngân lượng và mỹ nhân như đặc dị công phu của mình xưa nay.Nhưng đảo chúa quả là người có tâm sắt đá.Một ly không chuyển tiếp tục xuất hiện nhân dịp kinh kỳ nghênh tiếp Bảo Châu kỳ nhân ,để cương quyết chuyển một tỉ ngân lượng vào một cái quỹ nào đó miễn rằng nó gắn chặt với cái tên của Bảo Châu kỳ nhân.Sợ kỳ nhân từ chối,đảo chúa đi nước cờ thượng phong gửi trước một tỉ ngân lượng qua một bằng hữu khác của Bảo Châu kỳ nhân.Chiêu thức mà giang hồ gọi là triệt buộc.Kỳ nhân khỏi chạy.Bó tay.

Đào đảo chúa

Đảo chúaquả xứng danh cao thủ .tấm lòng bác ái cũng mênh mông như biển Hạ Long,nếu thật đảo chủ đang kẹt địa chỉ để thực hiện tâm nguyện, tại hạ xin làm kẻ đưa đường miễn phí cho đảo chủ.Tại hạ đang cầm run rẩy trong tay mình hai chương trình ‘vượt lên số phận” và ‘tiếp sức người thầy “.Những học sinh chẳng có gì trừ 2 thứ.Học cực đỉnh và sống cực nghèo.Đảo chúa hãy hình dung một nữ sinh 17 tuổi hàng ngày phải tắm giặt,nấu nướng bằng thứ nước chảy qua con lạch bên hông nhà mà hai đầu con lạch là cầu tiêu ,kiểu cầu cá miền tây.Cô gái ấy luôn có một thứ trong túi :thuốc Clo để khử nước trước khi tắm giặt.Đảo chúa hãy hình dung những đứa trẻ nghèo không đủ 3 ngàn để ăn xôi mặn.ngày nào cũng xôi ngọt rắc nửa muỗng đường giá 1 ngàn để không ngất xỉu giữa lớp….kể sơ sơ thế thôi.Những học sinh ấy khi được giúp đỡ một học bổng nghèo nàn để có thể tiếp túc con đường đến lớp, cũng sẵn sàng nhường bớt những trợ giúp hảo tâm khác cho bạn khác cùng hoàn cảnh.Áo rách đùm lấy áo nát.

Đào đảo chúa.

1 tỉ của đảo chúa chỉ là hạt cát so với ngân lượng như bãi cát mênh mông của mình.Đảo chúa có lòng đến thế vậy có dám cùng tại hạ chơi ván cờ nhân nghĩa này ? Tại hạ chỉ cần 100 triệu ngân lượng trong cái 1 tỉ ngân lượng kia thôi.tại hạ cam đoan sẽ nhường hết cái đức mênh mông nếu có cho đảo chủ.ấn chỉ giấy tờ rõ ràng để bố cáo cùng thiên hạ.

Chỉ có điều…

Tại hạ…

Không phải là Bảo Châu kỳ nhân

Không bảo kê được cái “danh thơm” mà đảo chúa cần

Kẹt vậy đó…

Dám không?

(lượm về từ blog của nhà thơ Đỗ Trung Quân)

Friday, August 20, 2010

ngã rẽ (st)

Trong cuộc đời, chúng ta sẽ gặp rất nhiều người, nếu có duyên, sẽ đi cùng nhau một đoạn đường. Nhưng cuộc đời dài thế, có trăm ngàn ngã rẽ, kiểu gì cũng có người phải rẽ trước. Và thế là mỗi người lại tiếp tục đi con đường của mình, có thể gặp lại ở một ngã rẽ nào đó, cũng có thể không bao giờ gặp nữa. Có những người, khi đi lướt qua nhau sẽ thành người xa lạ...
Nhưng mỗi cuộc gặp, mỗi đoạn đường, mỗi người đi cùng ta một đoạn đường, đều có ý nghĩa với ta.
Cho dù đó là người cùng ta chơi chung những trò chơi ngày thơ bé, cùng ăn chung một cái bánh con con, cùng khóc vì mẹ mắng, cùng tay lấm mặt lấm cười vui, rồi lớn lên, mỗi đứa một chí hướng, một con đường, một ước mơ, rồi xa nhau và không bao giờ gặp lại. Ngày bé những ước mơ trong trẻo thường giống nhau, lớn lên thì mỗi đứa một quan niệm sống, những gì bạn cho là hạnh phúc, với ta có thể là tầm thường, những gì ta theo đuổi, với bạn có thể là viển vông. Đi mãi, đi mãi, rồi quay nhìn lại, điều chung duy nhất chỉ là kí ức, kí ức lấm lem màu mực trên quần áo và nụ cười vỡ ra trong veo trưa hè...
Cho dù đó là người bạn thân thiết đã chia sẻ cùng ta những nước mắt, nụ cười của rung động đầu đời, để rồi vì một vài hiểu lầm mà xa dần nhau, mà không thể hiểu nhau, bên nhau thêm nữa. Người ta nói tình bạn giống như một quả bóng, nhìn thì rất đẹp, nhưng chỉ cần một cái gai nhỏ châm vào cũng đủ nổ tung. Thế gian có gì là mãi mãi bền vững, huống chi hai con người vốn không chung gì cả ngoài cảm giác thân thiết, hiểu nhau, cảm thông. Đến khi không còn cảm giác đó nữa thì tình bạn tan vỡ và người ta rời xa nhau...
Cho dù đó là mối tình đầu trong sáng và vụng dại, khi người ta yêu mà chỉ biết là yêu thôi. Tình cảm đó sẽ theo suốt cuộc đời, cho dù không nguyên vẹn. Giống như một chiếc bình pha lê đẹp nhưng mong manh, dễ vỡ, và tuổi trẻ với sự hiếu thắng, ngây thơ, thiếu sâu sắc đã làm nó vỡ thành ngàn giọt nước mắt, nhưng người ta gói ghém ngàn giọt long lanh ấy vào hành trang của mình và mang theo. Mối tình đầu thiêng liêng đến nỗi, lúc đó, ai dám nói đó không phải là tình yêu thực sự, rằng mình không trân trọng, không sẵn sàng dâng hiến cả tuổi trẻ, cả cuộc đời cho nó, nhưng sau này khi bước vào những tình yêu khác, mới hiểu rằng lúc đó tình yêu đầu chưa đủ sâu sắc để ta hiến dâng, hi sinh. Đó chỉ là thứ tình cảm trong trẻo và đẹp đẽ như ban mai, như mùa xuân thôi. Nhưng cuộc đời còn có nắng sớm, mưa chiều, còn có mùa hạ rực rỡ, mùa thu dịu dàng, mùa đông lạnh giá...
Cho dù là người yêu, người cùng ta đốt cháy tim mình với đam mê, ngọt ngào, nhớ nhung, cay đắng. ngươì nào khi yêu không mong muốn được cùng nắm tay người yêu đi đến cuối con đường đời, nhưng không phải ai cũng có may mắn ấy. Có những người trước khi gặp được người sẽ cùng mình đi đến chặng cuối cùng sẽ phải đi một mình rất lâu hoặc chia sẻ những đoạn đường ngắn với một vài người khác. Thế gian rộng lớn như vậy, có biết bao nhiêu người sẽ đến, biết ai là người xa lạ, ai sẽ cùng ta đi đến chặng cuối cùng? Có lẽ chỉ có định mệnh và sự nhạy cảm của con tim mới có thể trả lời, nhưng cả hai đôi khi cũng nhầm...
Cuộc đời dài như vậy, có trăm ngàn ngã rẽ, ắt sẽ có người phải rẽ trước. Có người chung đoạn đường dài, có người chia đoạn đường ngắn. Có người trở thành xa lạ, có người sẽ gặp lại nhau. Chưa đi đến cuối con đường cũng khó mà biết người đó có cùng ta mãi mãi? Nhưng con người dường như có một linh cảm khi gặp ai đó, rằng đó chính là người sẽ mãi đi cùng ta trên con đường đời thăm thẳm này...
Dù sao đi nữa, dù ngắn dù dài, dù thành xa lạ hay thân thiết, mỗi một người đến trong đời ta, đi chung với ta một chặng đường đều đáng trân trọng. Họ đã là một phần đời của ta.
Tác giả: meoconngocngech-
Mình lượm về từ fb của Trúc. Cảm ơn nàng! Đọc đoạn này xong rồi, mình nhớ đến câu chị Th. để trên blog, 'Many people will walk in and out of your life, but only true friends will leave footprints in your heart.'

Tuesday, March 16, 2010

tản mạn chân gà

Hai cha con ngồi gặm chân gà, ba giả bộ nhăn mặt la làng: trời ơi, con ăn hết phần của ba rồi!
Con vẫn tì hai tay lên bàn, vừa mút chân gà chùn chụt, vừa nhướng mắt lên hỏi: (thông dịch) ai? ai lên vòng tay nói thưa Ôn cho con chân gà? ai nhắc mẹ đem về nhà? ai hả?
Còn đây là tản mạn chân gà của Ôn:
Thôi, bây giờ trở lại chuyện chân gà, thực tế hơn, là để... nhâm nhi.
Hồi đó, ăn chân gà là phải ăn cả cặp. Ăn một cái thì tay sẽ run !.Không biết có đúng vậy không sao nghe mơ hồ quá!. Ăn chân mà tay run ! Nếu như chỉ ăn một cái cánh (gà) thì sao !. Chắc là ( không phải tay, mà) chân run !.
Lại nhắc tới mấy tay thường ngồi lai rai ba sợi thì thích đầu-cổ-cánh (không thấy nhắc chân).
Rồi lại nghe có câu truyền tụng : nhất phao câu, nhì cổ cánh ( cũng không nghe nhắc tới chân mà lại bỏ mất cái đầu!)
Qua tới vùng đất mới này thì cái chân hoàn toàn mất dấu (đã đành) lây lan tới cả cái đầu !. Họa hoằn lắm mới thấy cái cổ (nhưng đã tuốt hết da) bọc trong dĩa bày bán lưa thưa. Chân mất, đầu lìa, cổ tuốt chỉ còn lại cái cánh là đắc địa hoạnh phát hoạnh tài ở vùng đất mới. Đi đâu cũng gặp, tới đâu cũng thấy.
Vậy thì cái chân (gà) còn đâu nữa ở đây mà ôn tản mạn chân gà !
Nói ra thì dài dòng chuyện di tản rồi tới chuyện di dân.
Ôn chỉ ngắn gọn là cái chân gà nay đã thấy được bày bán đầy dẫy trong những siêu thị Á Đông. Là một món ăn ngon trong những món ngon ở những nhà hàng “tỉm sấm” của người Tàu.
Nó cũng đang bắt đầu nở da, bung gân trong nồi mà ôn đang canh chừng ngọn lửa (gaz) riu riu cho kịp thời mềm, kịp thời thắm thía gia vị để con thưởng thức tài nấu nướng của ôn về món chân gà mà con rất thích.
Vì gọi là cái chân nên nó phải đi, đi theo lũ lượt người di dân Á Châu để tìm lại chỗ đứng. Để không hề mất dấu mà còn đắc địa hoạnh tài hoạnh phát, gần bằng ngang, cái cánh gà.
Con vốn sinh ra và rồi lớn lên trên vùng đất mới mà sao lại ưng thích cái món ăn xưa cũ của quê mình !.Ôn biết, có quá nhiều người bằng tuổi con hay lớn nhiều tuổi hơn con, nhìn thấy món chân gà đã lắc đầu le lưỡi, nói chi tới chuyện cầm nắm nhâm nhi say mê tới hai, ba dĩa, như con. Nói đâu xa, cậu Đào với dì Út của con đó, chớ hề mà đụng tới ! Mẹ con thì cũng có tham gia trong hội gặm chân gà của đại gia đình mình nhưng không nhiệt tình như con.
Hồi đó, bằng tuổi con rồi lớn lên, ôn cũng thích gặm chân gà. Có điều, chỉ là cặp chân gà luộc. Chỉ là một cặp chân thôi, không có nhiều !
Nay tới đời con thì sung túc hơn, dư thừa hơn. Món chân gà không chỉ đơn thuần là luộc chín mà có thêm gia vị, chưng nấu công phu nhiều cặp ( không phải duy nhất một cặp) chân gà mập ú no tròn ( đâu có phải gầy guộc da xương) để cho con có món ngon mà tận hưởng.
Vậy là Ôn với con tâm đắc cái món gặm chân gà !
Đã coi như là người tâm đắc thì ôn phải trọn tình cho xứng.
Món chân gà này ôn đã dày công nghiên cứu sách vở, ra công thực hiện nhiều lần tới nỗi bỏng cả da, tê cả lưỡi. Cuối cùng, đã thành công.
Dịp cuối tuần, cả mấy gia đình tụ họp đông đủ, ôn có dành riêng cho con món chân gà. Mắt con sáng rỡ, miệng con cười vui, tay con (không run nghe) cầm cái chân gà, gặm rất ngon lành...
Ngon lắm hay sao mà chúm miệng mút tới từng miếng xương nhỏ. Chắc là gia vị đã thấm đậm rồi đó !
Có món chân gà được mọi người trong nhà công nhận đã thành công không thua nhà hàng rồi thì con đừng có mè nheo mẹ dẫn ra nhà hàng làm chi cho tốn hao. Cứ tới đây .
Tới đây, hai ôn cháu mình tâm đắc, gặm...
Chiều nay, bà Ngoại đưa một dĩa chân gà ú nụ ( do tự tay ông nấu, tay bà chỉ đưa thôi) cho mẹ Kuno, dặn dò khi muốn ăn phải hấp lại, đừng đun nóng microway.
Ra cửa, Kuno ôm hôn ôn, rồi quay qua hỏi mẹ :” Có chân gà không?”.
Ôn nghe ra, thấm ý, bỗng bật cười Kiều Phong. Tâm đắc. Ha ha ha. Thiệt là tâm đắc!.

Do từ câu hỏi mẹ mà ôn ngẫu hứng!
Đêm khuya, ngồi viết một mạch tản mạn chân gà....

Tuesday, March 2, 2010

người không chiêm bao

Ta tha về nè xa. Sâm cầm đó!
1. Tinh mơ.
Trong khi người không chiêm bao còn say ngủ, nàng lặng lẽ rời khách sạn, mang theo máy ảnh và đi ra Hồ.
Hồ. Trong thơ xưa, nó được xưng tụng là gì nhỉ? Nàng Tây Thi. Bây giờ Hồ đang nằm duỗi mình trong sương mù, mượt mà, long lanh và hư ảo. Xứng danh người đẹp.
Bây giờ vẫn còn chưa trang điểm, nàng và Hồ.
2. Trời còn lạnh.
Hồ đẹp đến nỗi tôi xấu hổ mình đã quá vội vàng, chưa trang điểm mà đã đi gặp Hồ. May mà còn có chiếc khăn san đỏ sẫm màu rượu vang quấn quanh cổ tôi!
Giờ này quanh Hồ biết đâu có sói, sói có thể mang đầu người, bụng người và chân người. Đó là tôi chợt đùa thầm với chính mình trong làn sương bềnh bồng sớm đông.
Bầu trời màu tro ửng một chút hồng.
Với tôi, bầu trời lúc nào cũng đẹp. Tôi thường ngẩng nhìn, trong khi đi đường, cái vòm bao la đổi màu liên tục ấy.
Đừng thế nữa, chồng tôi nhiều lần trách mắng, nhìn mặt đất mà đi chứ!
3. Ngay cả khi nhìn mặt đất,
Nàng vẫn thấy thanh thiên phản chiếu trong gương, phản chiếu trong hồ, phản chiếu trong vũng nước...
Trong một giọt sương, nàng cảm thấy, cũng có ký ức của bầu trời xanh.
Ngay cả khi nhìn mặt đất,
Nàng vẫn lạc đường, vẫn bơ vơ, vẫn chờ đợi, vẫn đi về một chân trời xa.
Ngay cả khi nhìn mặt đất,
Nàng vẫn mang dáng vẻ mộng du và nàng đã gặp anh trong trạng thái đó, đã lấy anh trong trạng thái đó.
Nàng đã lấy người không chiêm bao.
4. Trước khi rời phòng, tôi ngoái nhìn về chiếc giường anh đang nằm.
Anh quấn mình trong chăn ấm. Như một con sâu. Ngáy đều. Như một ao tù rền âm thanh của bóng tối.
Ngay cả mang tai của anh, tôi cũng không thấy đâu. Đôi mắt anh giấu trong bóng tối của chính nó.
Giấc ngủ của anh bao giờ cũng say.
Giấc ngủ của anh có thời khắc chuẩn xác và không bao giờ mộng mị. Tôi biết.
Biết hay không biết thì cũng vậy.
Giá như một lần tôi có thể đi vào giấc ngủ ấy, cái thế giới trống rỗng không có gì ấy. Trong cái nhà tù hư vô ấy, chỉ có bóng tối.
Tôi đã may mắn thành công khi thuyết phục được anh trở về thăm cố hương từ một phương trời buốt lạnh, mịt mùng tuyết bay.
Chỉ để nhìn lại hồ, ngắm những vạt sen hồng và dõi mắt theo một bầy chim thiên di rủ nhau bay về An Bá, Yên Thiên.
Trong mơ, có lần tôi thấy mình bay trong bầy chim di trú ấy, vai mọc đôi cánh màu tím biếc, vẫy gió mà bay. Tỉnh dậy, mắt ướt. Chồng tôi ân cần hỏi han trong khi tôi vừa khóc vừa kể lể.
5. - Có gì thế em?
- Không.
- Có.
- Em chiêm bao...
- À, chiêm bao!
- Đừng chế giễu em.
- Em thấy em đang tậu một miếng đất trên mặt trăng, phải không?
- Miếng đất nào? Em chỉ thấy mình bay về An Bá trong hình hài một con chim thiên di, chính xác là con sâm cầm lẻ loi giữa một bầy cò, nhạn, giang, le le...
- Tội nghiệp em chưa, tội nghiệp những người phải sống thường xuyên với những giấc chiêm bao. Giá mà em có thể sống như anh. Như anh.
6. Bởi vì anh chưa từng biết mộng mị là gì. Trong hàng ngàn giấc ngủ anh trải qua từ bé đến giờ, tuyệt không hề có một giấc chiêm bao nào.
Anh đã thú nhận với nàng như thế ngay trước phút cầu hôn.
7. Và bây giờ, khi ngoái nhìn anh ngủ, tôi biết rõ một chốc nữa đây, đúng bon 6 giờ, anh sẽ mở mắt. Đôi mắt anh không lưu đọng một bóng hình hư ảo nào, hoàn toàn sáng rõ như hòa nhập với ánh nắng mai sẽ tràn vào phòng qua cửa sổ.
Anh sẽ đi vệ sinh, rồi rửa mặt, rồi đánh răng, rồi tập thể dục, rồi mở máy vi tính bắt đầu một ngày mới. Đó là một nghi lễ bất di bất dịch.
Ngày nào cũng như ngày nào.
Cho dù có luân hồi chuyển thế, anh nói, anh không tin là anh có thể sống khác với thời khóa biểu của mình.
Hay cho dù có động đất, sập trời, anh cũng thế.
Bởi thế, tôi không thể đánh thức anh dậy sớm, ra bờ Hồ giăng sương, đón đợi bầy sâm cầm bay xuống và vẫy nước trên Hồ. Trong cuộc đón đợi này, tôi phải lẻ loi thôi.
Nhưng kể từ khi lấy anh, có một cuộc đón đợi nào, nếu như thật sự là một cuộc đón đợi, mà tôi không lẻ loi đâu.
8. Nàng lang thang theo mạn hồ, ven một vạt sen mênh mông xanh ngút. Những lá sen xòe căng cánh như muốn bay lên.
Ngắm những búp sen hồng qua màn hình máy ảnh, nàng tìm chọn một điểm nhìn. Nhưng chưa bấm. Chờ nắng lên.
Một ông lão, chắc là chủ vạt sen, từ thuyền bước lên, tiến về phía nàng.
9. - Cô chụp ảnh sớm thế?
- Chưa đâu ạ. Bác đi vớt hoa sớm thế?
- Cũng chưa đâu.
- Cháu đợi sâm cầm nhưng không thấy.
- Dạo này hiếm hoi lắm!
- Sao thế ạ?
- Hàng quán xáo xác, du thuyền lung tung, săn bắt bừa bãi, chim biết trú vào đâu! Sâm cầm chỉ thích những nơi thanh vắng như cửa sông, bờ biển và đại hồ, nơi chim có thể bơi lặn thỏa thích và sống qua mùa đông.
- Cháu ngỡ mình về đúng mùa sâm cầm. Hóa ra không có gì hết.
- Nhớ những mùa trước, sâm cầm thường lặn dưới vạt sen của tôi tìm ăn những hạt sen rơi rớt, thực vật thủy sinh và tôm ốc nhỏ.
- Nghe nói loài chim này biết đào bới rễ cây mà ăn củ nhân sâm, phải không bác?
- Chắc là chuyện đời xưa, chắc là huyền thoại. Có một cô gái lên non tìm thuốc cứu cha già, nhìn thấy một bầy chim lạ đào bới cây củ lạ mà ăn. Cây đó là nhân sâm giúp cha cô khỏe lại. Do vậy mà chim lạ ấy được gọi là sâm cầm.
- Cháu thì cũng theo mùa chim di trú mà về đây. Để sống qua mùa đông. Để tìm một điều gì đó không rõ. Và để sống tiếp.
- Cô có thấy Hồ đang làm gì không?
- Làm gì hở bác?
- Đang mơ cô ạ, Hồ đang chiêm bao.
10. Từ biệt ông lão, tôi tiếp tục lang thang ven Hồ. Mùa này sâm cầm có về không?
Đừng phụ lòng ta chứ sâm cầm ơi!
Ta cũng là một con chim trốn tuyết, cũng như bọn em thôi.
Sâm cầm ơi, bọn em có những giấc chiêm bao không?
Như là ta vậy. Như ta.
11. Đi về phía tôi từ trong sương hiện ra một cô bé.
Cô đội một chiếc mũ len trắng trông ngộ nghĩnh như một cái mào chim. Cô mặc chiếc áo ấm bằng len nhung bên ngoài bộ váy xám tro.
Đó là một thiếu nữ. Hay chỉ là một bé gái? Tuổi không thể đoán. Có cái xinh xắn thơ dại pha lẫn một nhan sắc xuân thì.
Vừa đi cô vừa nhai một loại hạt nào đó. Dáng đi nhún nhảy của cô gợi nhớ loài chim có đôi chân cao. Đầu cô lại hay chuyển động theo lối nhìn nghiêng.
Sương mù như đang đưa đẩy cô. Sương mù như đang nhả ra cô. Đang đưa cô vào đời. Đang đưa cô đến với tôi.
Một cách vô thức, tôi giơ máy ảnh lên, ghi nhận khoảnh khắc một cô bé xinh đẹp hiện ra bất ngờ trong sương.
- Xin lỗi em nhé - tôi ấp úng nói khi cô bé tới gần - Chị chụp ảnh em mà không xin phép trước.
- Không sao mà - giọng cô bé nghe ríu rít - Chị có ăn hạt sen không?
Và cô bé đặt vài hạt sen tươi vào lòng bàn tay tôi.
Tôi nhìn em, không rời mắt ra khỏi em được. Đắm đuối như si tình.
Trong khi ăn hạt sen, tôi hỏi chuyện cô bé đội mũ len trắng có gương mặt lạ lùng xinh ấy.
12. - Nhà em ở gần Hồ à?
- Không đâu. Xa lắm cơ, xa vô cùng, xa ngút ngàn. Phải bay, bay mãi.
- Và em... bay... một mình à?
- Em đi lạc và rồi không thấy ai.
- Tội em quá!
- Nhưng em không sợ đâu. Em sẽ tìm ra bạn thôi. Thế nào cũng tìm được.
- Nếu như có thể, em về chỗ chị chơi nhé? Có được không?
- Chị cũng đi lạc, sống một mình à?
- Ồ không, chị đang ở khách sạn với người không chiêm bao.
- Người không chiêm bao?
- À, với chồng chị. Xin lỗi. Chị gọi anh ấy như thế.
- Em có thể đi chơi với chị một chốc. Nhưng họ hàng em đang đợi ở đâu đó.
- Ở đâu?
- Ở đâu đó bên ngoài...
- Bên ngoài cái gì?
- Bên ngoài... Em chưa biết. Rồi từ từ em sẽ biết thôi.
- Em đừng buồn, em nhé.
- Không, em không khóc đâu.
- Vậy thì chúng ta đi thôi.
- Vâng.
13. Giọng của cô bé đội mũ len trắng vừa có vẻ tự tin vừa nhuốm một nỗi buồn vô tả.
Cuộc hội ngộ bất ngờ đã nhanh chóng gắn bó họ trong tình thân thiết. Cứ như thể đó là hai chị em thương yêu nhau từ nhỏ.
Nhưng cuộc hội ngộ bất ngờ đó cũng nhanh chóng đi đến tan biến. Như thể là chưa từng có một mảy tình nào dấy lên giữa họ.
Nàng đưa cô bé về khách sạn, trong lòng náo nức niềm vui. Xinh đẹp, duyên dáng, khả ái, cô bé đội mũ len trắng tung tăng đi theo nàng.
Nhưng đến cổng khách sạn thì bỗng dưng không nhìn thấy cô bé đâu nữa.
Nàng nhìn quanh tìm. Nhìn lên trời tìm. Như thể tìm chim. Sương đã tan.
Chỉ thấy một chân trời hửng nắng.
14. 6 giờ. Người không chiêm bao mở mắt và hỏi: Em đi đâu sớm thế?
- Ra Hồ chụp ảnh. Một vạt sen hồng rất đẹp và một cô bé rất xinh.
- Cho anh xem.
Và ngồi ngay trên giường, anh mở xem các ảnh tôi vừa mới chụp trên màn hình LCD.
- Vạt sen đẹp thật - anh cười nói - Nhưng có cô bé nào đâu? Anh chỉ thấy có một con sâm cầm thôi, trông rất đẫy, nếu mà đem quay thì phải biết! Thịt nó thơm lắm, có mùi sen và nhân sâm. Ăn được nó thì có khác gì mình là vua...
Tôi giật lấy máy ảnh trên tay anh.
- Mặt em tái xanh tái mét - anh nói - Khổ chưa, đi dạo sớm làm gì cho rét mướt!
15. Rét mướt. Tôi cảm thấy rồi. Thực thế.
Chỉ còn lại rét mướt mà thôi.
NHẬT CHIÊU

Friday, October 16, 2009

Khổng Phu Tử

Văn xưa có lối tả chuyện thất tình là lạ.
Năm 551 trước Công Nguyên, Khổng Phu Tử tên là Khâu, chữ là Trọng Ni, sinh ở ấp Trâu, nước Lỗ, dòng dõi nhà Ân.
Từ nhỏ, Khâu ham học lạ thường, mà học hành cũng rất mau lẹ. Hay tìm thầy giỏi trong thiên hạ để theo học nhưng thường thì chỉ một tháng là nhà nào cũng hết chữ.
Độ ấy, Khâu theo học ở nhà họ Cát nước Tống. Hàng xóm nhà họ Cát là nhà họ Chu, có người con gái là nàng Chu Thu Ngọc. Nhà họ Chu này vốn dòng Chu Công, thế thời suy vi, dọn về ở vùng này đã ba đời nay. Chu Thu Ngọc vẻ mặt rất xinh đẹp mà lại nết na hiền thục, thường ngồi dệt vải ngoài sân nhìn Khâu học.
Khâu cũng có tình ý với nàng, hay liếc mắt trông sang. Khâu ngồi đọc sách nghe giảng ba tháng không học được chữ nào vào bụng bèn nhờ người qua nói với nàng Chu “Ta ở đây không sao học được, tạm xa nàng ít lâu, tới khi thành đạt sẽ cho người tới đón nàng về”. Nói đoạn rũ áo ra đi.
Khâu tới Vệ, chặt tre, viết thẻ nhờ người đưa về cho nàng Chu.
“Nước Vệ. Tháng Ba. Mùa Hạ.
Khí hậu và phong cảnh ở đây đẹp đẽ vô cùng.
Nếu có nàng ở đây, ta sẽ đưa nàng tới tắm ở sông Nguyệt Cầm,
rồi đi hóng gió ở đền Vũ Vu.
Ta gọi nàng là Cô Gái Trung Hoa.
Ta sẽ đưa nàng tới đây.
Ta sẽ đưa nàng tới đây.”
2.
Mùa thu, tháng tám, Khổng Phu Tử trở về Tống, thì nàng Chu đã về làm lẽ nhà họ Bàng.
Nàng Chu biết Khổng Phu Tử về, nhờ người nói lại: “Em là cô gái trong khung cửa, có biết chữ đâu mà đọc thẻ tre của chàng gửi? Cha mẹ đặt đâu thì xin ngồi đấy, chưa bao giờ dám mơ đến hai chữ Tự Do? Mọi thứ xin tùy ý chàng”.
Khổng Phu Tử ngồi phệt xuống nền nhà nàng khi cũ, trong lòng tê tái, ruột gan rối bời, suốt nửa ngày không nói được chữ nào.
“Sông Nguyệt Cầm mà để làm gì? Đền Vũ Vu thì dành cho ai?
Ta đã không đủ Nhân chăng? Ta đã không đủ Trí chăng?
Tại sao nàng lại bỏ ta?”
Học trò nước Tống, nước Trịnh nghe tin Khổng Phu Tử bôn ba khắp nơi trở về , kéo nhau đến, đứng chật hai bờ ruộng xin được nghe giảng. Chúng hỏi “Thầy đi khắp nơi thế, xin được nghe dạy bảo một lời?”
Khổng Phu Tử lặng thinh, mắt nhìn xa xăm. Nhìn xuyên thế giới, nhìn từ cõi dương phần qua cõi âm phần. Nhìn thấy ông Chu Công ngồi viết sách, nhìn thấy nàng Chu nương ngồi dệt vải. Thẫn thờ mà đáp rằng:
“Ta Tòng Chu”.
3.
Năm 506 trước Công nguyên, Khổng Phu Tử dẫn ba mươi học trò qua Thái. Dân nước Thái chẳng buồn đón tiếp. Nhà giàu vẫn đóng chặt cửa, nhà nghèo vẫn ra ruộng cày.
Ba hôm sau, nàng Nam Tử, xinh đẹp nhất hồi đó cũng qua Thái. Dân nước Thái đứng chật đường tranh nhau xem mặt. Nhà giàu mở cửa, đốt pháo. Nhà nghèo dọn ngõ, treo nêu.
Khổng Phu Tử rầu rầu sắc mặt gọi mấy trò lại mà hỏi rằng:
"Này anh Do, thế nào là nhan sắc?"
Tử Lộ đáp “Thưa thầy, nhan sắc là sắc đẹp của người con gái”.
Khổng Phu Tử cau mày “Anh sai rồi”.
"Này anh Tứ, thế nào là nhan sắc?"
Tử Cống đáp “Thưa thầy, nhan sắc là nét đẹp trong thiên hạ”.
Khổng Phu Tử nói “Như anh nói thì cũng tạm được coi là có học”.
"Này anh Hồi, thế nào là nhan sắc?"
Nhan Uyên đáp "Thưa thầy, làm gì có nhan sắc, thiên hạ cứ tưởng lầm đấy thôi ạ".
Khổng Phu Tử cười khanh khách “Anh nói phải lắm, phải lắm”.
Tăng Sâm đứng nghe lỏm ngoài cửa bèn nói chõ vào:
“Thưa thầy, thế còn nàng Chu nương ?”.
Khổng Phu Tử lặng thinh, mắt nhìn xa xăm. Nhìn xuyên thế giới, nhìn từ cõi dương phần qua cõi âm phần. Nhìn thấy ông Chu Công ngồi viết sách, nhìn thấy nàng Chu nương ngồi dệt vải. Thẫn thờ mà đáp rằng:
“Ta vẫn tòng Chu”.
4.
Khổng Phu Tử lang thang khắp nơi mà không làm nên trò trống gì. Học trò bỏ đi gần hết. Nhan Uyên thì đã chết, chỉ còn Tử Cống ở gần, thỉnh thoảng tới thăm thầy.
Khổng Phu Tử nói:
“Ta sắp đi ngủ với giun rồi,
Ta sắp đi ngủ với giun rồi.
Sao anh đến trễ thế?”
Tử Cống hỏi:
“Liệu có còn nhà Chu được chăng?”.
Khổng Phu Tử đáp:
“Hết tất cả rồi. Thiên hạ loạn lạc đã lâu, làm gì còn nhà Chu nữa?”.
Khổng Phu Tử lại lặng thinh, mắt lại nhìn xa xăm. Nhìn xuyên thế giới, nhìn từ cõi dương phần qua cõi âm phần. Không còn thấy ông Chu Công ngồi viết sách, không còn thấy nàng Chu nương ngồi dệt vải. Thẫn thờ hồi lâu rồi nói:
“Ta đi đây”.
Một tháng sau Khổng Tử mất. Đấy là năm 479 trước CN. 250 năm sau, nhà Chu mất về tay nhà Tấn, còn nàng Thu Ngọc, mãi đến hết đời, Khổng Phu tử cũng không một lần gặp lại.